Độc đáo nghề làm giấy dó của đồng bào dân tộc Cao Lan

Độc đáo nghề làm giấy dó của đồng bào dân tộc Cao Lan
Anh Quang làm các bước cuối cùng để hoàn thiện một bản giấy dó. Ảnh: Long Vũ
Anh Quang làm các bước cuối cùng để hoàn thiện một bản giấy dó.
Ảnh: Long Vũ

Vượt hơn 200 cây số từ Thủ đô Hà Nội, chúng tôi đến thôn Khe Nghè, xã Lục Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang để tìm hiểu và trải nghiệm với nghề làm giấy dó. Người Cao Lan ở xã Lục Sơn chiếm khoảng 60% dân số của xã, họ sống xen kẽ với các dân tộc Kinh, Hoa, Sán Dìu, Dao ở vùng đất dưới chân núi Yên Tử. Theo nhiều bậc cao niên trong thôn Khe Nghè, nghề giấy dó có từ lúc người Cao Lan bắt đầu đến vùng đất này sinh sống. Nghề làm giấy dó ngày trước rất thịnh hành. Nhiều khách từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội cũng tìm đến đây để mua cho kỳ được giấy dó. Cũng bởi giấy dó ở đây có nhiều và đặc biệt là chất lượng rất tốt nên thu hút được nhiều khách hàng.

Theo anh Dương Văn Quang - người có truyền thống gia đình 4 đời làm giấy dó ở thôn Khe Nghè: “Trước đây, ở trong làng có rất nhiều gia đình làm giấy dó, nhưng hiện nay, chỉ có vài hộ. Bởi nguyên liệu khan hiếm, việc làm giấy dó rất kỳ công, thu nhập không cao. Giấy dó ngoài việc dùng để viết chữ Nho, chữ Hán, chữ Nôm Dao thì còn được dùng vẽ tranh thờ cúng, để làm tiền vàng (của người Cao Lan), bởi giấy dó rất dai và thấm mực”. Nguyên liệu chính để làm giấy dó được lấy từ những cây mọc trong tự nhiên. Người Cao Lan phải vào tận những cánh rừng sâu để tìm vỏ cây dưỡng (tiếng địa phương gọi là cây hau pau), mọc tự nhiên trên những ngọn núi cao hay trên những ngọn đồi. Vỏ cây dưỡng dễ bóc vỏ, nhất là khoảng tháng 3 và tháng 7.

Anh Quang cho biết thêm: Để có được nguyên liệu trong tình trạng khan hiếm như hiện nay, thì việc đầu tiên của anh là kiếm thật nhiều vỏ cây dưỡng để dự trữ làm giấy dó. Sau khi đã có vỏ cây dưỡng, thì công đoạn tiếp theo là tước bỏ phần đen bên ngoài của vỏ cây này, đây là công đoạn mất nhiều công nhất, đòi hỏi sự tỉ mỉ, cần mẫn, bởi tước phần vỏ đen càng sạch thì sản phẩm làm ra sẽ càng trắng và đạt chất lượng tốt. Phần vỏ được tước xong đem ngâm với nước vôi trong hoặc tro bếp khoảng 12 giờ. Sau khi ngâm xong, mang rửa qua nước sạch một lần nữa, sau đó đun lên khoảng 3 giờ rồi rửa sạch, ngâm nước khoảng 2 ngày và lại đem rửa rồi đập cho thật nát phần vỏ. Công đoạn cuối cùng là đem phần vỏ được đập nát xuống bể khuấy đều sẽ được một loại nước màu vàng nhạt, đặc sánh.

Trong quá trình khuấy trộn cùng một chút cây hồ, hay cây dây trơn (tiếng địa phương gọi là cây mòi vợt pạ) được lấy trên rừng nhằm làm cho giấy khi vào khuôn không bị dính. Sau đó, đem đổ hỗn hợp vừa làm xong vào một cái khuôn làm bằng vải, có nhiều kích cỡ khác nhau (thường là 60x120cm), để tạo độ dày đều cho giấy dó, rồi đưa đi phơi, nếu trời nắng ít thì phải 2 ngày mới bóc ra được tấm giấy dó đầu tiên. Sản phẩm cuối cùng, giấy dó có màu trắng, giấy dày đều, phẳng và dai. Giấy dó là nguyên liệu làm từ tự nhiên nên có độ bền cao và nó rất phù hợp với các nghi lễ truyền thống của dân tộc Cao Lan. Các công đoạn làm ra tờ giấy dó kỳ công là vậy, nhưng giá bán của một tờ giấy dó chỉ có khoảng 30 đến 55 nghìn đồng, tùy theo kích cỡ của giấy.

Theo anh Quang, việc ít hộ làm giấy dó ở trong thôn một phần do nguyên liệu khan hiếm, phần khác là do thu nhập từ giấy dó rất ít. Một số người dân còn “giữ nghề” vì đó là truyền thống và làm giấy dó để dùng trong gia đình, dòng họ. Nghề làm giấy dó chưa phát triển được nhiều như những nghề truyền thống khác, nhưng nó đã lặng lẽ tồn tại như một minh chứng cho bàn tay tài hoa và những giá trị văn hóa lâu đời của đồng bào dân tộc Cao Lan nơi đây. Giấy dó đã đi vào đời sống tâm linh và nó như một sợi dây “gắn kết” giữa người còn sống với người đã khuất và như nhắc nhở mọi người luôn nhớ về tổ tiên, nguồn cội. Bởi thế, loại giấy này rất phổ biến và được ưa thích trong cộng đồng người Cao Lan. Mỗi gia đình người Cao Lan có một góc thờ, chỉ dán tờ giấy lên vách phía sau đối diện với cửa chính để đánh dấu. Cũng giống như người Kinh đốt vàng mã trong ngày lễ, người Cao Lan cũng đốt giấy dó theo quan niệm tâm linh. Đối với đồng bào nơi đây, bà con làm giấy dó không hẳn vì lợi nhuận mà vì muốn giữ nghề của tổ tiên họ để lại cho muôn đời sau.
Theo bienphong.com.vn

Có thể bạn quan tâm

Âm vang trống đồng trong đời sống người Lô Lô

Âm vang trống đồng trong đời sống người Lô Lô

Khi ánh mặt trời đầu ngày vừa chạm lên những mái trình tường vàng nơi bản Lô Lô Chải, sương vẫn còn quấn quanh triền núi, tiếng trống đồng bỗng ngân lên - trầm, vang, dội vào vách đá rồi lan ra thung sâu như một luồng sinh khí đánh thức cả cao nguyên. Đấy không chỉ là âm thanh mở đầu của lễ hội, mà là nhịp đập của bao thế hệ người Lô Lô, là lời khẳng định rằng giữa đại ngàn đá xám gió ngàn, bản làng này vẫn giữ trọn linh hồn văn hóa tự ngàn xưa.

Khát vọng vươn lên của xã miền núi Phú Thọ

Khát vọng vươn lên của xã miền núi Phú Thọ

Xã Liên Sơn nằm trong nhóm 5 xã có quy mô lớn nhất tỉnh Phú Thọ, sở hữu địa hình đa dạng, nguồn tài nguyên phong phú và nền văn hóa bản địa giàu bản sắc của đồng bào Mường.

Sắc màu văn hoá của đồng bào Chăm

Sắc màu văn hoá của đồng bào Chăm

Không gian văn hóa đền tháp của đồng bào Chăm tỉnh Khánh Hòa là điểm nhấn đặc sắc nằm trong chuỗi các hoạt động của Tuần “Đại đoàn kết các dân tộc - Di sản Văn hóa Việt Nam” (18 - 24/11/2025) đang được giới thiệu tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Sơn Tây, Hà Nội).

Sắc màu dân tộc thiểu số ở Bắc Ninh

Sắc màu dân tộc thiểu số ở Bắc Ninh

Tỉnh Bắc Ninh có trên 39 vạn người đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống (chiếm 11,02% dân số toàn tỉnh) với nhiều thành phần dân tộc, trong đó có 7 thành phần dân tộc thiểu số chủ yếu gồm: Nùng, Tày, Sán Dìu, Hoa, Cao Lan, Sán Chí, Dao (chiếm 97,78% tổng số người dân tộc thiểu số). Mỗi dân tộc có trang phục, tập quán riêng tạo sự khác biệt và đa dạng văn hóa cho vùng đất này.

Quảng bá thương hiệu trà Shan tuyết

Quảng bá thương hiệu trà Shan tuyết

Ngày 5/11, tại Nhà văn hóa Trung tâm, phường An Tường (Tuyên Quang), Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tuyên Quang tổ chức Hội thi sản phẩm trà Shan tuyết và kỹ thuật pha chế trà năm 2025.

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Hằng năm, vào ngày Mão tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân xã Đông Cuông, tỉnh Lào Cai rộn ràng tổ chức Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông. Đây là hoạt động truyền thống nhằm tổng kết một năm lao động, sản xuất, những người con quê hương, du khách bày tỏ lòng tri ân với Mẫu Thượng Ngàn, các đấng siêu nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Sáng 23/10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên tổ chức Khai mạc Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh, năm 2025. Sự kiện là hoạt động thiết thực nhằm chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025 - 2030; hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/1945 - 23/11/2025) và 80 năm Ngày Thể thao Việt Nam (27/3/1946 - 27/3/2026).

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Giữa nhịp sống hiện đại đang lan tỏa tới từng bản làng vùng cao, người Dao Tiền ở Bản Sưng, xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình cũ, nay thuộc tỉnh Phú Thọ) vẫn bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có nghi lễ cưới, một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, tín ngưỡng và đạo lý của cộng đồng.

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Chiều 20/10/2025, khoảnh khắc thiêng liêng và xúc động nhất trước thềm lễ hội Katê chính là khi cộng đồng người Chăm làng Hữu Đức (Phước Hữu, Khánh Hòa) trang trọng đón nhận y trang từ người anh em Raglai. Đây không chỉ là một nghi lễ, mà còn là một minh chứng sống động cho mối giao hảo bền chặt, độc đáo đã được trao truyền qua nhiều thế hệ trên mảnh đất đầy nắng và gió. 

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Những ngày này, từ các tuyến phố trung tâm cho đến tận các thôn bản nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Tuyên Quang đều rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ, băng rôn chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là kỳ Đại hội đầu tiên sau khi hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, là sự kiện chính trị trọng đại, thể hiện ý chí, niềm tin và khát vọng của gần 1,9 triệu đồng bào các dân tộc trong tỉnh cùng hướng tới tương lai.

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer tỉnh Cà Mau hiện có trên 32 nghìn hộ với gần 140 nghìn nhân khẩu, chiếm gần 6,5% dân số toàn tỉnh. Những ngày này, tại các địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, không khí chào đón lễ Sene Dolta, một trong những lễ hội truyền thống quan trọng và mang đậm bản sắc văn hóa của người Khmer, diễn ra rộn ràng. 

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Tại miền đất Quảng Ngãi, các làn điệu dân ca H’rê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc. Để những giai điệu này không bị lãng quên, vai trò của người phụ nữ dân tộc H’rê vô cùng to lớn. Họ là những nghệ nhân thầm lặng, miệt mài gìn giữ và lan tỏa tình yêu với âm nhạc truyền thống, biến những lời ca thành sợi dây kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ và hiện tại.