Đôi nét về sự thay đổi trong hôn nhân của người Tây Nguyên hiện nay

Đôi nét về sự thay đổi trong hôn nhân của người Tây Nguyên hiện nay
Từ sau năm 1975, với sự giao thoa văn hóa vùng miền đa dạng ở Tây Nguyên và Đắk Lắk, đồng thời với những cuộc hôn nhân không thuần chất đồng tộc, đã có rất nhiều biến đổi trong quy trình đi tới kết hôn của thanh niên, nhất là với người dân tộc phía Bắc hay người miền xuôi. Tuy nhiên, hôn nhân ở những cặp đôi thuần Êđê, Mnông hoặc các tộc người tại chỗ khác, trình tự các lễ nghi vẫn giữ theo tập quán, gần như không thay đổi. Nghĩa là vẫn nhất thiết phải có đủ 4 bước: lễ hỏi, lễ thỏa thuận, lễ cưới (đón rể) và lại mặt. Cũng đôi khi hai bên đồng thuận kết hợp lễ thỏa thuận với lễ đón rể. Những tộc người phụ hệ như Banar, Xê đăng, K’ho…, việc kết hôn cũng diễn ra theo các bước trên, chỉ khác là nhà trai chủ động. Biến đổi xuất hiện rõ rệt nhất trong nội dung của các lễ, nhất là hình thức của các lễ cưới (bước thứ ba).

Sự thay đổi ở từng bước cụ thể như sau :

Trong lễ hỏi: Sau khi đôi nam nữ thanh niên đã tìm hiểu, có nhu cầu tiến tới hôn nhân và trình bày với cha mẹ, lễ hỏi (hầu hết của các tộc người mẫu hệ) sẽ vẫn do nhà gái chủ động chọn ngày, thông báo với nhà trai. Lễ vật truyền thống nhất thiết phải có chiếc vòng đồng, nếu nhà trai ưng thuận sẽ nhận chiếc vòng của nhà gái, ché rượu và con gà sống (rượu và con gà sẽ được nhà trai dùng đãi cơm nhà gái ngay trong ngày hôm đi hỏi ấy).

Ngày nay, lễ hỏi chồng không cần có vòng đồng (có khi thay vòng bằng một khoản tiền nhỏ tương ứng giá trị), rượu cần cũng được sử dụng rất ít. Thông thường nhà gái sẽ mang theo bánh kẹo, rượu trắng hoặc rượu chai, thuốc lá đến nhà trai. Có gia đình còn mang theo xôi nếp. Đây là lần đầu tiên hai bên gia đình gặp gỡ, làm quen. Thăm hỏi gia cảnh hai bên và trao đổi thống nhất việc chọn ngày làm ngày lễ thỏa thuận.
 
Đôi nét về sự thay đổi trong hôn nhân của người Tây Nguyên hiện nay ảnh 1
Đám cưới  của cặp đôi người Êđê  tại buôn  Ea Sút,  thị trấn  Ea Pốk, huyện Cư M’gar (Đắk Lắk).

Lễ thỏa thuận: Thông thường đây là lễ hai bên gia đình sẽ bàn việc “thách cưới” và ngày cưới. Trong cuộc gặp gỡ này, hai bên thỏa thuận số của cải, tiền bạc nhà gái phải nộp; theo tập tục, ngoài 8 chiếc vòng đồng, phải có chăn và trang phục thổ cẩm, trâu “đền” cho mẹ, bò “đền” cho cha, heo “đền” cho các chị… Đối với người K’ho ở Lâm Đồng, mỗi phụ nữ trong gia đình nhà trai còn phải nhận được một tấm khăn choàng thổ cẩm. Hầu như tộc người nào cũng quy định trong lễ vật phải có những tấm chăn hoặc áo tự dệt theo truyền thống.

Ngày nay, lễ vật thường là mền bông, rượu, thuốc lá và tiền (số tiền này cao hay thấp tùy thuộc vào giá trị của chàng trai. Nếu chàng trai khỏe mạnh, điển trai, hay nếu đã có công ăn việc làm ổn định, thậm chí có chức vụ nào đó thì số tiền sẽ rất cao hoặc sẽ thấp xuống tùy thuộc vào thiện chí của nhà trai đối với cô gái).

Thông thường theo truyền thống, sau khi hai bên đã nhất trí được số lượng “của hồi môn” và ngày đón rể, nhà gái ra về chuẩn bị lễ vật theo yêu cầu, đến ngày rước rể sẽ mang tới. Nhưng hiện nay nhà gái có thể nộp ngay toàn bộ số của cải này, nếu đã có sự chuẩn bị; hay cũng có thể chỉ 1/3 hay 1/2, nhà trai sẽ cho phép rước rể ngay. Số vật chất nhà gái mang tới còn thiếu sẽ được trả sau một thời gian nào đó, lâu hay chóng tùy theo nguồn kinh tế và sự hứa hẹn của nhà gái. Lời hứa này rất thiêng liêng, ít khi bị bội ước. Theo tập tục, trong khi thực hiện đưa và đón rể, hai bên gia đình còn phải chuẩn bị một số vòng đồng, hoặc quy ra tiền lẻ, trả khoản “mua đường” nếu bị các nhóm trẻ nghịch ngợm chăng dây chặn lại.

Lễ cưới: Hiện nay mọi việc trong lễ cưới đã hoàn toàn thay đổi, gần như không còn chút gì của truyền thống. Nhà gái báo cho nhà trai ngày cưới, gửi thiệp mời. Đúng ngày đã định, nhà gái sẽ dựng rạp, thuê người nấu ăn. Trước giờ hôn lễ được công khai, gia đình, dòng họ nhà gái sẽ có một lễ nhỏ đón nhận chàng rể mới (như lễ gia tiên của người Kinh). Ở tộc người M’nông và Xê đăng còn có lễ trùm chăn lên cô dâu, chú rể để cầu phúc. Lúc này mọi người sẽ tùy theo hoàn cảnh kinh tế mà tặng quà cho cô dâu, chú rể (ngày nay đa số là bằng tiền và vàng). Tiếp đến, đôi vợ chồng trẻ sẽ lần lượt mời ông bà, cha mẹ, người trong dòng họ cầm cần rượu, hoặc uống ly rượu.
 
Nghi thức kết đôi trong đám cưới của cặp đôi người Êđê - Kinh tại phường Tự An, TP. Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk).
Nghi thức kết đôi trong đám cưới của cặp đôi người Êđê - Kinh tại phường Tự An, TP. Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk).

Bữa đãi tiệc tiếp theo không còn nữa những món ăn truyền thống như vêch, canh măng, lá bép hay đọt mây xào… lẫn hàng chục ché rượu cần. Người nhà sẽ căn cứ theo thực đơn nhà hàng đưa ra để lựa chọn món ăn. Sẽ có người dẫn chương trình và ban nhạc hát xập xình (nhiều ban nhạc toàn người dân tộc thiểu số đã được thành lập để phục vụ chính cộng đồng của mình)… Cô dâu, chú rể thuê trang phục ở các tiệm ngoài phố chứ hiếm người mặc váy áo truyền thống hoặc chỉ mặc lúc chụp ảnh cưới, làm lễ đón rể, nhận quà của gia đình, sau đó thay váy áo đầm, veston ra chào khách.

Lễ lại mặt: Sau lễ cưới ba ngày, vợ chồng phải về “lại mặt” bên nhà trai. Theo truyền thống, lúc này gia đình chồng mới trao của hồi môn cho con trai mang đi. Trước đây, tài sản được mang theo này thường là một chiếc lưỡi cuốc, một chục chén ăn cơm… Ngày nay, đây là lúc họ hàng nhà trai tùy theo hoàn cảnh, tặng quà cho chú rể mới. Sau ba ngày, hai vợ chồng lại về chung sống bên nhà gái.

Đến đây còn có một bước ngoặt nữa khác với hôn nhân truyền thống: theo phong tục, cô dâu phải “ở dâu” tại nhà chồng 3 năm, vừa làm quen với gia đình, vừa lao động để “trả công” cha mẹ đã nuôi nấng chồng mình. Tuy nhiên, hiện nay gần như tục này đã bị xóa bỏ. Thay vào đó, nhà gái nộp cho nhà trai 3 chỉ vàng để được “chuộc” con gái về. Một số tộc người khác quy định có dễ dàng hơn so với người Êđê, cặp vợ chồng có thể ở luân phiên mỗi bên một vài năm, cho đến khi được phép ở hẳn bên nhà vợ. Hoặc do hoàn cảnh neo đơn của gia đình nhà trai, nhà gái vẫn cho cô dâu cư trú ở nhà chồng.

Nếu có nhiều con gái, khi sinh con, cha mẹ vợ sẽ cắt đất làm nhà và đất rẫy cho ra ở riêng, tự xây dựng kinh tế gia đình. Thông thường chỉ còn cô gái con út ở lại chăm sóc cha mẹ. Trong trường hợp cả hai vợ chồng đều làm việc tại cơ quan nhà nước, không cư trú trong buôn, gia đình nhà gái sẽ phải có quà tặng riêng cho chú rể (như xe máy, tivi…).

Như vậy về cơ bản, hôn nhân các tộc người Tây Nguyên hiện nay, nếu không theo phụ hệ, vẫn giữ tập quán truyền thống nhà gái đi hỏi chồng, nộp “sính lễ” theo đòi hỏi của nhà trai. Đôi vợ chồng trẻ cư trú bên nhà vợ. Con sinh ra mang họ mẹ và chia tài sản cho vợ chồng, con gái. Tuy nhiên trong lễ cưới, từ thứ tư bước (lễ) đã được rút gọn xuống còn 3 lễ theo các tập tục cũ.

Những đám cưới người Tây Nguyên, dù cưới vợ hay lấy chồng, lấy người dân tộc phía khác hay người Kinh hầu hết không còn theo tập quán bản địa, mà đều do nhà trai đi hỏi và dẫn cưới, ra nhà hàng, mặc váy đầm, comple; cư trú bên nhà trai, con sinh ra mang họ cha hoặc cả hai họ…

Tại một số tỉnh Tây Nguyên hiện nay đang có xu hướng xây dựng các quy tắc chung cho hôn nhân của người dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, cần xem lại việc đó có thật cần thiết không? Vì trên thực tế, tập quán truyền thống vẫn được gìn giữ, chỉ có vài thay đổi về nội dung cụ thể cho phù hợp với từng hoàn cảnh hiện tại của mỗi gia đình, nhất là không thể quy định “một số điều cụ thể” cho những cuộc hôn nhân ngoại tộc. Bên cạnh đó, những đám cưới dẫu đồng tộc hay ngoại tộc cũng chưa thấy có điều gì sai pháp luật, chỉ có ở một vài nơi cư trú của đồng bào dân tộc thiểu số phía Bắc còn nạn tảo hôn cần phải chấn chỉnh.

Nên chăng các địa phương chỉ cần biên soạn một số những quy định hoặc nhất là giới hạn (với sự trợ giúp tuyên truyền, vận động của Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ ngay tại cơ sở) về việc thách cưới sao cho vừa phải để vợ chồng trẻ sau đó có vốn làm ăn, phát triển kinh tế. Còn việc quy định trang phục, vòng đồng, rượu cần như truyền thống… để tùy từng gia đình.
Theo baodaklak.vn

Có thể bạn quan tâm

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Những ngày này, từ các tuyến phố trung tâm cho đến tận các thôn bản nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Tuyên Quang đều rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ, băng rôn chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là kỳ Đại hội đầu tiên sau khi hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, là sự kiện chính trị trọng đại, thể hiện ý chí, niềm tin và khát vọng của gần 1,9 triệu đồng bào các dân tộc trong tỉnh cùng hướng tới tương lai.

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer tỉnh Cà Mau hiện có trên 32 nghìn hộ với gần 140 nghìn nhân khẩu, chiếm gần 6,5% dân số toàn tỉnh. Những ngày này, tại các địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, không khí chào đón lễ Sene Dolta, một trong những lễ hội truyền thống quan trọng và mang đậm bản sắc văn hóa của người Khmer, diễn ra rộn ràng. 

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Tại miền đất Quảng Ngãi, các làn điệu dân ca H’rê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc. Để những giai điệu này không bị lãng quên, vai trò của người phụ nữ dân tộc H’rê vô cùng to lớn. Họ là những nghệ nhân thầm lặng, miệt mài gìn giữ và lan tỏa tình yêu với âm nhạc truyền thống, biến những lời ca thành sợi dây kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ và hiện tại.

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Trong không gian bảng lảng khói sương của núi rừng, của bản làng, bên những ngôi nhà sàn gỗ, những mế (phụ nữ lớn tuổi), ẻm (cô gái trẻ) trong trang phục áo pắn (áo ngắn), váy dài quấn kết hợp với cạp váy dệt hoa văn tinh xảo, đeo tênh (thắt lưng), xà tích và vấn khăn trắng trên đầu. Tiếng chiêng mường vang vọng cùng lời mo rì rầm đưa con người về lại với cội nguồn, về với những giá trị cốt lõi từ ngàn xưa… Đó là văn hóa Mường, là di sản, kho báu tinh thần của cộng đồng người Mường Hòa Bình cũ, nay là tỉnh Phú Thọ.

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu là một nghi thức quan trọng trong lễ cưới của đồng bào Dao đỏ ở bản Nậm Sáng, xã Mường Than, tỉnh Lai Châu. Trải qua thời gian cùng những thăng trầm của lịch sử, đến nay, người Dao đỏ nơi đây vẫn giữ được nghi thức truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Cô dâu mặc trang phục truyền thống rực rỡ sắc màu. Đoàn đón dâu nhà trai phải chuẩn bị một đội kèn trống gồm 4 người, đây là phần không thể thiếu trong nghi lễ đón dâu. Tiếng kèn, trống, chiêng, chũm chọe để chào mừng và thông báo cho tổ tiên, đất trời về sự kiện trọng đại này.

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram tại ấp Cù Lao, xã Hưng Hội (Cà Mau) như một "bảo tàng mỹ thuật" thể hiện tài năng của các nghệ nhân Khmer. Ngôi chùa cũng là một trong những điểm đến văn hóa vô cùng độc đáo tại Cà Mau.

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Bắc Ninh là địa phương sở hữu di sản Thực hành Then được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong dòng chảy văn hóa xứ Kinh Bắc, làn điệu Then vang lên như tiếng gọi của núi rừng, vừa mộc mạc vừa tha thiết. Tại miền đất giàu truyền thống văn hiến này, Then được cộng đồng đón nhận, trân trọng và đưa vào đời sống như một nét đẹp văn hóa; góp phần làm phong phú thêm bức tranh đa sắc màu của vùng đất này.

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Sau khi hợp nhất, không gian phát triển du lịch của tỉnh Đắk Lắk được mở rộng, tạo cơ hội cho các đơn vị, doanh nghiệp du lịch, lữ hành, lưu trú kết nối tiềm năng, lợi thế ở khu vực Đông - Tây. Du khách được trải nghiệm nhiều cung bậc cảm xúc của biển xanh, cát trắng, nắng vàng và đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ cùng những bản sắc văn hóa đặc trưng của đồng bào miền núi.

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Tây Ninh đang từng ngày gìn giữ và phát huy nghề truyền thống làm đầu lân cùng nghệ thuật múa lân sư rồng. Bằng đôi bàn tay khéo léo, các nghệ nhân tỉ mỉ tạo hình những chiếc đầu lân rực rỡ, hòa với nghệ thuật múa lân sư rồng trong các dịp lễ, Tết và chương trình nghệ thuật, tạo nên nét đẹp văn hóa gắn liền với đời sống tinh thần người dân, góp phần bảo tồn và lan tỏa bản sắc văn hóa đặc trưng của địa phương.

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Thôn Xí Thoại (xã Xuân Lãnh, tỉnh Đắk Lắk) được biết đến là nơi lưu giữ nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Ba Na. Không chỉ là nét đẹp văn hóa mang tính bản sắc, nghề dệt ở đây còn là điểm nhấn thu hút du khách trong hành trình khám phá bản sắc văn hóa.

Trải nghiệm nét văn hóa, truyền thống đặc trưng của các dân tộc

Trải nghiệm nét văn hóa, truyền thống đặc trưng của các dân tộc

Ngày 31/7, thông tin từ Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam cho biết, từ ngày 1 - 29/8/2025 tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) sẽ diễn ra nhiều hoạt động tháng 8 với chủ đề “Về Làng trải nghiệm nét văn hóa truyền thống”.

Thắp lửa truyền thống, đánh thức bản sắc văn hóa dân tộc S’tiêng

Thắp lửa truyền thống, đánh thức bản sắc văn hóa dân tộc S’tiêng

Đồng bào dân tộc S’tiêng với kho tàng văn hóa phong phú đang đứng trước thách thức trong việc gìn giữ và truyền dạy cho thế hệ mai sau. Trước thực trạng này, tại Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng sóc Bom Bo (xã Bom Bo, tỉnh Đồng Nai), chính quyền địa phương đang nỗ lực thắp lại ngọn lửa truyền thống, đánh thức tình yêu và ý thức bảo tồn văn hóa trong mỗi người trẻ.

Nghệ An: Giải mã nghi thức buộc chỉ cổ tay và lễ đặt tên của người Ơ Đu

Nghệ An: Giải mã nghi thức buộc chỉ cổ tay và lễ đặt tên của người Ơ Đu

Trải qua hàng trăm năm người Ơ Đu tại bản Văng Môn (xã Nga My, tỉnh Nghệ An) đã bảo lưu, gìn giữ và trao truyền được nhiều tập tục, nghi thức văn hóa, tín ngưỡng, nét sinh hoạt mang giá trị bản sắc văn hóa rất độc đáo, riêng có. Trong đó, nghi thức cột chỉ cổ tay và lễ đặt tên đều nằm trong Lễ đón tiếng sấm đầu năm, vốn là những nghi lễ tâm linh, tín ngưỡng độc đáo trong hệ thống lễ tục vòng đời của người Ơ Đu; thể hiện văn hóa ứng xử hài hòa giữa con người với thiên nhiên, hướng về cội nguồn, tri ân các vị tiền bối đã có công khai phá, bảo vệ bản mường, tạ ơn trời đất.

Đưa di sản vào đời sống đương đại, phát triển du lịch bền vững

Đưa di sản vào đời sống đương đại, phát triển du lịch bền vững

Ngày 14/7, tại xã Khổng Lào, Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lai Châu và UBND xã Khổng Lào tổ chức Lễ công bố Quyết định và trao chứng nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2025 cho tỉnh Lai Châu.