Tại miền đất Quảng Ngãi, các làn điệu dân ca H’rê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc. Để những giai điệu này không bị lãng quên, vai trò của người phụ nữ dân tộc H’rê vô cùng to lớn. Họ là những nghệ nhân thầm lặng, miệt mài gìn giữ và lan tỏa tình yêu với âm nhạc truyền thống, biến những lời ca thành sợi dây kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ và hiện tại.

Dù cuộc sống còn nhiều vất vả, nhọc nhằn nhưng trái tim Nghệ nhân Ưu tú Đinh Thị Y (65 tuổi), thôn Long Thượng, xã Sơn Mai, chưa bao giờ ngừng thổn thức trước những điệu hát của người H'rê. Bà thuộc lòng từng câu hát ta lêu (hát kể chuyện), ca chôi (hát đối đáp), ka eh (hát ru), vva dhô (hát đồng dao)… Đó không chỉ là tình yêu mà còn là niềm đam mê đã ngấm sâu vào máu thịt của bà.
Với năng khiếu trời phú và giọng ca ngọt ngào, bà Đinh Thị Y là một trong số ít nghệ nhân không chỉ thuộc lòng mà còn biết sáng tác các làn điệu dân ca của đồng bào H’rê. Trong đó, bà đặc biệt yêu thích điệu ta lêu bởi tính chất tự sự, chia sẻ. Bà cho biết, có hai dòng ta lêu gồm: ta lêu cổ và ta lêu mới. Trong đó ta lêu cổ dùng để hát, kể cho con cháu nghe bên bếp lửa nhà sàn, kể về các anh hùng huyền thoại của cộng đồng tộc người; các vị thần linh, phản ánh mối quan hệ con người, giữa người và loài vật, cây cối hoặc giữa loài vật với cây cối... Dòng ta lêu mới, ca ngợi quê hương, Đảng, Bác Hồ, bộ đội; tình đoàn kết các dân tộc anh em, mối tình gắn bó giữa quân và dân; ca ngợi cuộc sống mới, tinh thần lao động sản xuất... đặc biệt là về tình yêu đôi lứa.
Bà Y kể, từ thuở ấu thơ, tiếng ru con của mẹ, tiếng hát ta lêu, ca chôi của các bà, các mẹ đã vang lên trong đời sống thường nhật, lễ hội hay trên nương rẫy, ngấm dần vào tâm hồn bà. Nhờ vậy, bà sớm thấm nhuần những ngôn từ, tiết tấu mượt mà, đằm thắm của dân tộc mình. Điều làm bà lo lắng nhất hiện nay là những làn điệu dân ca, các điệu múa và nghi thức lễ hội có nguy cơ bị lãng quên dần trong đời sống hiện đại. Những năm qua, bà luôn nỗ lực tìm hiểu, nghiên cứu những nét văn hóa đặc sắc ấy với khát khao phục hồi, phổ biến, đưa nó quay trở lại trong đời sống tinh thần của bà con nơi đây.
Chị Đinh Thị Đặng, thôn Lãnh Hạ, xã Sơn Mai là một trong những học trò của bà Y. Chị Đặng cho biết, nhờ sự truyền đạt nhiệt tình của bà Y nên đến nay chị đã hát được rất nhiều bài ta lêu, ca chôi của đồng bào H’rê. Hiện chị đang truyền dạy lại những gì học được cho các bạn trẻ.
Ông Nguyễn Anh Tuấn, Chủ tịch UBND xã Sơn Mai, đánh giá cao những đóng góp của Nghệ nhân Ưu tú Đinh Thị Y trong việc sưu tầm, sáng tác và truyền dạy các làn điệu dân ca của đồng bào H’rê. Ông cho biết, thời gian tới, chính quyền sẽ tiếp tục đồng hành cùng nghệ nhân và người dân địa phương trong công tác gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa vùng cao, đặc biệt là các làn điệu dân ca.
Cũng như bà Y, bà Phạm Thị Lài (71 tuổi) ở thôn Bùi Hui, xã Đặng Thùy Trâm vẫn miệt mài hát những làn điệu dân ca được các bà, các mẹ truyền dạy. Dù tuổi đã cao nhưng bà vẫn nhiệt tình tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ trong thôn, đi biểu diễn ở các sự kiện trong và ngoài xã. Để gìn giữ nét truyền thống đặc sắc đó, nhiều năm nay, bà còn lặn lội đến các thôn, xóm xa xôi để tìm tòi sưu tầm, nghiên cứu hướng phục hồi các làn điệu dân ca.
Bà Lài tâm sự, bản thân rất lo lắng nếu sau này con cháu không còn biết hát các làn điệu dân ca H’rê nữa thì truyền thống của cha ông sẽ mất đi. Vì vậy, để lưu giữ, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc mình, bà thường xuyên cất lên tiếng hát nhằm lan tỏa tình yêu âm nhạc dân tộc đến thế hệ trẻ. Nhờ sự tận tâm của bà, nhiều bạn trẻ đã dần hứng thú hơn với việc học những làn điệu dân ca truyền thống. “Tôi sẽ tích cực dành nhiều thời gian để truyền dạy cho thế hệ trẻ học hát dân ca H'rê với mong muốn các làn điệu này sẽ được truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác,” bà Lài chia sẻ.
Bà Nguyễn Thị Vân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đặng Thùy Trâm cho biết, bà Phạm Thị Lài là một tấm gương sáng trong việc giữ gìn văn hóa truyền thống của đồng bào H'rê. Bà không chỉ là người có đóng góp lớn cho xã hội mà còn là biểu tượng sống cho sự đoàn kết và gìn giữ bản sắc dân tộc. Chính quyền địa phương đang tích cực hỗ trợ để bà Lài sớm được công nhận danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú nhằm ghi nhận những cống hiến quý báu của bà./.
Tên tự gọi: Hrê, trước kia thường gắn với tên sông sở tại như: "người Krê" - sông Krế ở Sơn Hà; "người Hrê" - sông Hrê ở Ba Tơ; "người nước Ðinh" - sông Ðinh ở An Lão)...
Tên gọi khác: Chăm Rê, Chom, Thượng Ba Tơ, Mọi Luỹ, Mọi Sơn Phòng, Mọi Ðá Vách, Chăm Quảng Ngãi, Mọi Chòm, Rê, Màn Thạch Bích.
Dân số: 127.420 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (Ngữ hệ Nam Á). Từ thời kỳ trước năm 1975, chữ viết ra đời bằng cách dùng hệ thống kí tự La-tinh để phiên âm, được sử dụng rộng rãi, nhưng nay đã bị mai một.
Lịch sử: Người Hrê thuộc số cư dân sinh tụ rất lâu đời ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên.
Hoạt động sản xuất: Phần lớn người Hrê làm ruộng nước là chính, chỉ có một bộ phận sống chủ yếu nhờ rẫy. Lối canh tác rẫy phát - đốt - chọc trỉa, với bộ nông cụ đơn giản gồm rìu, dao quắm, gậy chọc lỗ, cái nạo cỏ, khi thu hoạch thì dùng tay tuốt lúa. Cách thức làm ruộng tương tự như ở người Việt vùng nam Trung bộ (dùng cày, bừa có đôi trâu kéo, biết gieo mạ và cấy, dùng liềm và vằng để gặt...) nhưng còn thấy dấu vết của tập quán trồng lúa rẫy.
Từng gia đình thường nuôi trâu, lợn, chó, gà. Nghề thủ công chỉ có đan lát và dệt vải nhưng nay cũng không phát triển, nhất là nghề dệt chỉ còn ở vài nơi. Việc giao lưu hàng hoá thường theo hình thức trao đổi vật trực tiếp. Hái lượm, săn bắt và đánh cá cung cấp nguồn thức ăn quan trọng cho mỗi gia đình.
Ăn: Người Hrê thường ngày ăn cơm tẻ, ngày lễ tết có thêm cơm nếp. Thức ăn chủ yếu là những thứ kiếm được và muối ớt, khi có cúng bái thì thịt con vật hiến sinh được dùng làm đồ nhắm và cải thiện bữa ăn. Thức ăn đựng trong các vật làm bằng mo cau. ¡n bốc. Thức uống có nước lã, nước chè xanh, rượu cần (nay rượu cất khá thông dụng). Tập quán hút thuốc lá và ăn trầu cau phổ biến.
Ở: Người Hrê sống chủ yếu ở miền tây tỉnh Quảng Ngãi (các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long) và tỉnh Bình Ðịnh (huyện An Lão), một số ít ở tỉnh Kon Tum (huyện Kon Plông). Nhà sàn có cửa ra vào ở mỗi đầu và một mặt bên, có 2 hàng cột tạo thành 2 vì cột, trên đỉnh đốc có hình cặp sừng thú, vách nghiêng phía trên ra ngoài. Mặt sàn thường hơi cao một chút về bên không đặt bếp đun, nhằm tạo thế nằm thoải mái: chân thấp hơn đầu. Nhà ở trong làng đều dựng ngang triền đất dốc, tránh để đòn nóc chĩa hướng chắn ngang dòng chảy của sông suối.
Ngày nay, hầu hết người Hrê mặc theo kiểu người Việt: tuy nhiều phụ nữ còn dùng váy nhưng không phải loại vải sợi bông tự làm ra với những dải hoa văn ở hai đầu ống váy và khi mặc không tạo thành hai tầng như xưa.
Mặc: Theo nếp cũ, đàn ông đóng khố, chít khăn, khi dự lễ hội hoặc đi xa thì mặc áo; đàn bà có váy ống mặc kiểu hai tầng. Có áo, khăn trùm đầu. Những vòng đeo trang sức làm bằng đồng bạc, nhôm và chuỗi cườm; riêng nam giới không trang sức ở tai.
Phương tiện vận chuyển: Người Hrê quen dùng gùi sau lưng, mỗi quai gùi quàng giữ vào một vai: chở thóc gạo thì dùng gùi đan dày, chở củi, sắn thì có gùi mắt thưa, đàn ông đi rừng hay đi trận có riêng loại gùi như chiếc túi hoặc gùi ba ngăn. Ngoài ra, người Hrê còn gánh lúa khi gặt và đội đồ vật trên đầu.
Quan hệ xã hội: Già làng có uy tín và ảnh hưởng lớn. Trước kia sự phân hoá xã hội đã khá sâu sắc, chế độ tôi tớ - đặc biệt là đi ở vì nợ - có phần khắc nghiệt hơn nhiều tộc Thượng khác, hiện tượng tranh chiếm và tập trung ruộng đất (theo đó là sự xác lập quyền thế của một số cá nhân) đã tương đối phát triển. Tuy vậy, quan hệ trong làng vẫn thể hiện tinh thần cộng đồng công xã.
Cưới xin: Cư trú phía chồng hay phía vợ là tuỳ thoả thuận giữa hai gia đình, phần đông sẽ dựng nhà ở riêng sau khi có con đầu lòng. Ðám cưới có nghi thức dâu và rể kết gắn với nhau thông qua việc trao bát rượu, miếng trầu cho nhau hay quàng chung một vòng dây sợi... Vợ goá có thể lấy tiếp em chồng, chồng có thể lấy cả em vợ. Con cô - con cậu, con gì - con già, con có chung mẹ hoặc cha đều không được lấy nhau.
Sinh đẻ: Việc sinh đẻ diễn ra bên cạnh bếp lửa trong nhà, có là đỡ hộ sinh, cắt rốn bằng dao, cái rau được gói trong mo cau rồi đem bỏ trong rừng hoặc chôn cạnh nhà. Sản phụ nghỉ ngơi vài chục ngày, kiêng ăn cá niêng, trứng, chuối, thịt gà trắng... Ðứa bé đầy tháng mới làm lễ đặt tên.
Ma chay: Quan tài độc mộc có dáng hao hao chiếc thuyền. Người chết được quàn tại nhà từ 1 đến 3 ngày rồi chôn trong bãi mộ của làng. Mộ đắp thành gò dài trên dựng nhà mồ có nóc mái làm như nhà ở. Tang gia "chia của" tựa hồ cho người chết đi ở riêng: từ đồ ăn thức uống cho đến vật dụng trong nhà, từ trang phục, công cụ lao động... đều có ở mộ.
Thờ cúng: Người Hrê có nhiều kiêng cữ và lễ thức tôn giáo, xuất phát từ quan niệm mọi vật đều có hồn hay ma và con người bị các lực lượng siêu nhiên chi phối. Khi ốm đau, rủi ro, khi làm nhà, mang thai, đẻ khó, có người chết, khi gieo cấy và gặt hái, khi gieo trỉa và tuốt lúa, khi đưa thóc lên kho và lần đầu lấy thóc về ăn... đều cúng bái. Cộng đồng làng chỉ tổ chức cúng cầu an, tránh dịch bệnh, còn lại đều là các lễ cúng của gia đình.
Lễ tết: Lễ hội có đâm trâu là lớn nhất, dù đó là lễ của làng hay một nhà cũng đông vui. Hàng năm, người Hrê ăn tết vào khoảng tháng 10, sau khi thu hoạch lúa, nay nhiều làng theo tết Nguyên đán. Ngày tết có cúng cho trâu và lợn, cầu sinh sôi, cúng mời tổ tiên và cúng sức khoẻ cho mọi người trong nhà; có bánh gói bằng gạo nếp, rượu, thịt... Dịp tết làng làm lễ cúng tập thể cầu mong mưa thuận, đủ nước.
Lịch: Cách tính tương tự âm lịch của người Việt. Trong tháng, phân biệt ngày tốt, ngày xấu và chọn ra những ngày nên làm việc này, không nên làm việc kia.
Văn nghệ: Nhạc cụ thường dùng là bộ chiêng ba chiếc, bộ cồng ba chiếc, trống, các loại đàn ống tre hoặc có vỏ bầu làm hợp âm, sáo, nhị, đàn môi, nữ giới chơi bộ ống vỗ hai chiếc. Dân ca phổ biến nhất là điệu Katê và Ka choi. Truyện cổ (Hmon) được lưu truyền như một vốn quý trong văn hoá dân tộc, gồm những đề tài khác nhau. Các mô típ hoa văn hình học dệt trên vải và thể hiện trên đồ đan cũng mang tính truyền thống lâu đời.
Theo cema.gov.vn
