Lễ cúng mừng lúa mới của người Jrai

Điệu múa xoang truyền thống trong phần hội của Lễ cúng mừng lúa mới. Ảnh: Hồng Điệp
Điệu múa xoang truyền thống trong phần hội của Lễ cúng mừng lúa mới. Ảnh: Hồng Điệp

Cứ vào dịp cuối năm, khi thóc lúa về kho, người Jrai ở tỉnh Gia Lai lại tổ chức Lễ cúng mừng lúa mới. Theo già làng Siu Yon ở làng Ó, xã Ia Vê, huyện Chư Prông (Gia Lai), nghi lễ này rất quan trọng với người Jrai nên năm nào dân làng cũng cúng tạ ơn Yang.

Lễ cúng mừng lúa mới của người Jrai ảnh 1Điệu múa xoang truyền thống trong phần hội của Lễ cúng mừng lúa mới. Ảnh: Hồng Điệp

Nơi tổ chức lễ cúng mừng lúa mới có thể là nương, rẫy, kho lúa, hộ gia đình hoặc nhà Rông. Theo phong tục truyền thống, người Jrai chuẩn bị cây Nêu, các lễ vật như cốm/ gạo mới thu hoạch, một con gà nướng, một ghè rượu. Gần đến giờ cúng, già làng nổi một hồi trống, sau đó đọc lời khấn thông báo với Yang (thần linh) những thành quả của năm cũ, cầu mong mưa thuận, gió hòa, đời sống sung túc trong năm mới. Dứt tiếng cồng chiêng, già làng lấy một phần huyết gà, gan gà còn sống bôi lên cột nhà Rông. Kết thúc phần lễ, người Jrai tập trung dưới mái nhà Rông, cùng đánh chiêng, nhảy múa, ăn gà, uống rượu và chúc nhau sức khỏe, đoàn kết, vụ mùa mới bội thu.

Lễ cúng mừng lúa mới của người Jrai ảnh 2Già làng làm chủ lễ trong ngày hội. Ảnh: Hồng Điệp
Lễ cúng mừng lúa mới của người Jrai ảnh 3Người Jrai biểu diễn cồng chiêng. Ảnh: Hồng Điệp
Lễ cúng mừng lúa mới của người Jrai ảnh 4Khách mời hào hứng uống rượu cần trước sự mến khách của những chủ nhân lễ hội mừng lúa mới. Ảnh: Hồng Điệp

Lễ mừng lúa mới là một trong những nét văn hóa đặc sắc của người Jrai vẫn còn lưu giữ được cho tới ngày nay. Nét văn hóa đặc trưng này cần được bảo tồn và gìn giữ để thế hệ con cháu tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Hồng Điệp

(DTMN)
Dân tộc Gia Rai

Tên tự gọi: Gia Rai.

Tên gọi khác: Jrai, Giơ Ray, Chơ Ray.

Nhóm địa phương: Chor, Hđrung (gồm cả Hbau, Chor), Aráp, Mthur, Tơbuân.

Dân số: 122.245 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ hệ Malayô Pôlynêixa (ngữ hệ Nam Ðảo).

Lịch sử: Dân tộc Gia Rai là một trong những cư dân sớm sinh tụ ở vùng núi Tây Nguyên, lan sang một phần đất Campuchia. Trong xã hội Gia Rai xưa đã có Pơ tao ia (vua nước) và Pơ tao pui (vua lửa) chuyên cúng trời, đất, cầu mưa thuận gió hoà... Trước thế kỷ XI người Ê Ðê, Gia Rai được gọi chung một tên là Rang Ðêy. Vào thế kỷ XV-XVI sử sách phong kiến Việt Nam ghi nhận danh hiệu Thủy Xá (vua nước), Hoả Xá (vua lửa). Chỉ có người đàn ông họ Siu mới được làm vua lửa, vua nước và con gái họ Rơ chom mới được quyền làm vợ hai vua. Có lẽ chữ Pơ tao đồng nghĩa với Mtao của người Chăm, Tạo của người Thái và Thao của người Lào, đều chỉ người thủ lĩnh.

Hoạt động sản xuất: Kinh tế trồng trọt là cái gốc của hoạt động sản xuất. Ðất đai là đối tượng tác động lao động được phân chia thành hai loại - đất chưa canh tác có tên: đê, trá, lon, vô chủ và đất canh tác gọi chung là Hma, phần sở hữu của mỗi gia đình. Hma gồm những mảnh đất trồng trọt theo cách nửa vườn, nửa rẫy; nương phát, đốt, cuốc xới đất và trọc lỗ tra hạt. Còn ruộng nước dùng cuốc xới ; sục bùn và đang chuyển sang cày, bừa dùng 2 bò kéo.

Chăn nuôi gia đình: Trâu, bò, ngựa, voi, lợn, gà, chó... Trong đó trâu là vật ngang giá trong việc trao đổi vật quý như chiêng, ché và hiến sinh trong lễ nghi tín ngưỡng. Nghề phụ gia đình có: mộc, rèn và đan lát. Những người thợ thủ công đã làm ra những chiếc gùi dùng để đựng đồ mặc, trang sức, vận chuyển. Nghề dệt với khung dệt kiểu Inđônêdiêng khá thịnh hành tạo được tấm vải khổ rộng, hoa văn đẹp.

Ăn: Gạo tẻ là lương thực chính; lương thực phụ là ngô. Thức ăn có rau, muối, ớt, canh rau, lâu lâu mới có bữa thịt, cá. Bữa cơm hàng ngày có thể cả gia đình ngồi quanh nồi cơm, bát ớt... hoặc chia thành từng phần cho mỗi người. Bữa tiệc, lấy ché rượu cần làm trung tâm, quanh đó có các món ăn đựng trên bát, đĩa hoặc lá chuối để vừa ăn, vừa uống. Khi rượu ngà say có hát, nhảy múa, đánh chiêng. Trừ trẻ thơ, mọi người bất kể nam nữ đều hút thuốc lá.

Mặc: Ðàn ông đóng khố vải trắng kẻ sọc nhiều màu (toai), ngày lễ đóng khố vải chàm dài 4 m và rộng 0,30 m, có đường viền hoa văn và buông tua chỉ nhiều màu ở hai đầu. Áo màu đen cộc tay, hở nách, đường viền hoa văn chỉ màu chạy dọc hai sườn mang đậm dấu vết kiểu pông-sô. Pơtao hoặc chủ làng mặc áo chàm che kín mông, tay dài, chui đầu, có một mảng sợi màu đỏ làm khuy và khuyết cài từ cổ đến ngực. Dưới dải cúc là miếng vải đỏ hình vuông khâu đáp vào để làm dấu hiệu là áo. Ðàn bà mặc váy chàm (dài 1,40 m x rộng 1 m), có đường viền hoa văn chạy quanh gấu. Phần cạp có tua chỉ trắng hoặc màu. Váy không khâu liền thành ống nên khi mặc chỉ cuốn vào thân để chỗ giáp hai đầu về phía trước. Họ mặc áo cánh ngắn bó sát thân, dài tay. Trên cánh tay áo có chiếc được thêu những đường vòng hoa văn chỉ màu. Nơi ở quanh năm nóng nực nên cả nam lẫn nữ ưa thích cởi trần.

: Nhà sàn cho mỗi gia đình một vợ một chồng mẫu hệ. Kiến trúc có hai loại. Nhà sàn dài kiểu la-yun-pa, dài 13,5 m và rộng 3,5m là kích thước trung bình cho mỗi nhà. Nhà được phân thành hai phần: bên mang và bên óc. Cửa bên óc chỉ quay về hướng Bắc và bên óc dành cho những người đàn bà - chủ gia đình mẫu hệ. Trong nhà có hai bếp. Nhà nhỏ kiểu Hđrung với kích thước rộng 3m x dài 9m. Chiều cao từ đất lên đòn nóc không quá 4,50m. Cửa chính thông ra sàn phơi chỉ quay về hướng Bắc. Hai bên cửa chính có hai cửa sổ. Trong nhà chỉ có một bếp.

Phương tiện vận chuyển: Gùi có hai dây đeo qua vai là hình thức phổ biến. Ngoài ra có ngựa, voi để thồ và cưỡi. Voi còn dùng để kéo...

Quan hệ xã hội: Làng (Plơi hoặc Bôn) vừa là đơn vị cư trú vừa cấu kết thành tổ chức xã hội, có một hội đồng gồm những ông già chủ trì chung (Phun pơ bút). Hội đồng chọn người đứng đầu làng (Ơi pơ thun, Thap lơi hay Khoa plơi), có lệ làng gọi là Kđi. Xã hội Gia Rai truyền thống có hình thức cố kết vùng gọi là Tơ ring. Người đứng đầu Tơ ring là Khoa Tơ ring, giúp việc xét xử có Po phắt kđi và Thao kđi. Tơ ring là cộng đồng lãnh thổ, khi có chiến tranh trở thành liên minh quân sự.

Dòng họ theo chế độ mẫu hệ nên phả hệ hoàn toàn tính về dòng mẹ. Khối cộng đồng máu mủ được tập hợp thành từng họ - Kơ nung hoặc Ðgioai. Mỗi họ thường được phân chia nhiều ngành hoặc phân đôi, thành họ khác. Mỗi họ, mỗi ngành kiêng một tô tem riêng. Gia đình nhỏ mẫu hệ là nét nổi bật của người Gia Rai khác với trường hợp người Ê Ðê là đại gia đình mẫu hệ.

Cưới xin: Luật tục nghiêm cấm những người cùng ngành họ và dòng mẹ lấy nhau. Tuổi từ 18-19 nam nữ tự do lựa chọn người yêu, trong đó nữ chủ động lựa chọn lấy chồng. Phong tục giản đơn, không mang tính chất mua bán và do nhà gái chủ động. Bảo lưu tục chồng chết, vợ lấy em chồng và ngược lại vợ chết, chồng có thể lấy chị vợ. Khi đã thành vợ thành chồng thì đàn ông phải sang nhà vợ, không có trường hợp ngược lại.

Sinh đẻ: Bà mẹ được coi trọng. Khi mang thai họ không được làm việc nặng nhọc. Họ rất lo sợ đẻ khó và chết vì sinh nở. Khi sinh nở sản phụ phải kiêng khem nhiều thứ như không ăn cơm nấu mà chỉ dùng cơm lam, không ăn thịt mà chỉ ăn rau...

Ma chay: Người Gia Rai theo tục tất cả người cùng họ mẹ chôn chung một huyệt. Người đàn ông chết phải khiêng về chôn ở huyệt phía mẹ mình. Trong huyệt chung ấy, các quan tài được xếp kề sát bên nhau theo chiều ngang rồi chồng lên theo chiều dọc. Khi quan tài cao bằng miệng huyệt thì lấy ván kê bốn bề để chôn tiếp vài ba lớp nữa mới làm lễ "bỏ mả" (Họa lui, Thi nga hay Bó thi) - một nghi thức lớn trong quá trình tang lễ.

Nhà mới: Việc làm nhà mới bắt đầu bằng nghi thức bói tìm đất. Bà chủ đem 7 hạt gạo đặt trên đất rồi lấy cái bát úp lên để bói tìm sự linh ứng của thần đất. Sau 3 ngày, 3 đêm đi lật bát lên xem nếu hạt gạo còn nguyên là thuận. Ngược lại, mất hạt nào thì phải đi phải đi bói tìm chỗ khác. Ðặt hạt gạo để bói xong tổ chức ăn uống, hò reo, múa chiêng 3 ngày. Dựng nhà xong lại mở hội nhà mới 3 hôm nữa mới kết thúc.

Thờ cúng: Người Gia Rai theo vạn vật hữu linh. Thần linh (Yang) có nhiều loại, trong đó có ba loại nổi bật được nhắc đến trong lễ cúng hàng năm hay nhiều năm một lần:

Thần nhà (Yang sang) lực lượng bảo vệ nhà cửa được cúng trong nhà. Khi nhà mới dựng thì phải tiến hành nghi thức lễ đâm trâu và trồng cây gạo.

Thần làng (yang ala bôn) và thần nước (yang ia) là lực lượng bảo vệ làng xóm và cuộc sống của mọi thành viên được cúng ở bến nước và chân núi.

Thần vua (Yang pó tao) do vua lửa, vua nước, vua gió (ptao agin) tiến hành lễ cầu trời, mưa thuận, gió hoà và mùa màng tươi tốt.

Ngoài ra, người Gia Rai còn tin khi chết các linh hồn biến thành ma. Có hiện tượng gán cho người có ma thuật làm hại gọi là ma lai.

Lễ tết: Xưa nam nữ đến tuổi thành niên có tục cưa răng hàm trên. Việc này do ông già Pô khoa tkơi thực hiện bằng cách lấy liềm cắt hoặc dùng một viên đá ráp chà xát vào hàm răng trên, ở ven suối. Cầm máu răng bằng lá thuốc (Tkoi am). Nữ 1-2 tuổi xâu lỗ tai, sau đó lấy bấc cây căng dần tai ra để đến khi trưởng thành thì đeo hoa tai bằng ngà voi có đường kính đến 6 cm. Nam giới không căng tai mà chỉ đục lỗ để đeo khuyên.

Lễ nghi lớn nhất là lễ bỏ mả, tạc tượng mồ, lễ lên nhà mới, có ăn, uống, hát, biểu diễn cồng chiêng.

Lịch: Tháng giêng được tính từ ngày có trận mưa đầu tiên tương đương với tháng 4 dương lịch. Tháng 12 lịch Gia Rai (tháng 3 dương lịch) gọi là Blanning, nghỉ ngơi lao động và làm các lễ nghi tôn giáo, tín ngưỡng.

Học: Người Gia Rai đã có bộ chữ theo mẫu tự La-tinh. Giống như tất cả các dân tộc khác, hiện nay học sinh đều học tiếng và chữ phổ thông.

Văn nghệ: Người Gia Rai có nhiều trường ca như Ðăm San, Xinh Nhã, Ðăm Di... thể hiện dưới hình thức hát thơ có đệm đàn Tưng nưng. Những điệu vũ dân gian Gia Rai có một số động tác mô phỏng những cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc. Ðàn Tơ rưng, Krông put, Tưng nưng ... rất được phổ biến.

Chơi: Thanh niên thích chơi kéo co trong ngày lễ.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Gia Rai

Có thể bạn quan tâm

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Hằng năm, vào ngày Mão tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân xã Đông Cuông, tỉnh Lào Cai rộn ràng tổ chức Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông. Đây là hoạt động truyền thống nhằm tổng kết một năm lao động, sản xuất, những người con quê hương, du khách bày tỏ lòng tri ân với Mẫu Thượng Ngàn, các đấng siêu nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Sáng 23/10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên tổ chức Khai mạc Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh, năm 2025. Sự kiện là hoạt động thiết thực nhằm chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025 - 2030; hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/1945 - 23/11/2025) và 80 năm Ngày Thể thao Việt Nam (27/3/1946 - 27/3/2026).

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Giữa nhịp sống hiện đại đang lan tỏa tới từng bản làng vùng cao, người Dao Tiền ở Bản Sưng, xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình cũ, nay thuộc tỉnh Phú Thọ) vẫn bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có nghi lễ cưới, một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, tín ngưỡng và đạo lý của cộng đồng.

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Chiều 20/10/2025, khoảnh khắc thiêng liêng và xúc động nhất trước thềm lễ hội Katê chính là khi cộng đồng người Chăm làng Hữu Đức (Phước Hữu, Khánh Hòa) trang trọng đón nhận y trang từ người anh em Raglai. Đây không chỉ là một nghi lễ, mà còn là một minh chứng sống động cho mối giao hảo bền chặt, độc đáo đã được trao truyền qua nhiều thế hệ trên mảnh đất đầy nắng và gió. 

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Những ngày này, từ các tuyến phố trung tâm cho đến tận các thôn bản nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Tuyên Quang đều rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ, băng rôn chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là kỳ Đại hội đầu tiên sau khi hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, là sự kiện chính trị trọng đại, thể hiện ý chí, niềm tin và khát vọng của gần 1,9 triệu đồng bào các dân tộc trong tỉnh cùng hướng tới tương lai.

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer tỉnh Cà Mau hiện có trên 32 nghìn hộ với gần 140 nghìn nhân khẩu, chiếm gần 6,5% dân số toàn tỉnh. Những ngày này, tại các địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, không khí chào đón lễ Sene Dolta, một trong những lễ hội truyền thống quan trọng và mang đậm bản sắc văn hóa của người Khmer, diễn ra rộn ràng. 

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Tại miền đất Quảng Ngãi, các làn điệu dân ca H’rê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc. Để những giai điệu này không bị lãng quên, vai trò của người phụ nữ dân tộc H’rê vô cùng to lớn. Họ là những nghệ nhân thầm lặng, miệt mài gìn giữ và lan tỏa tình yêu với âm nhạc truyền thống, biến những lời ca thành sợi dây kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ và hiện tại.

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Trong không gian bảng lảng khói sương của núi rừng, của bản làng, bên những ngôi nhà sàn gỗ, những mế (phụ nữ lớn tuổi), ẻm (cô gái trẻ) trong trang phục áo pắn (áo ngắn), váy dài quấn kết hợp với cạp váy dệt hoa văn tinh xảo, đeo tênh (thắt lưng), xà tích và vấn khăn trắng trên đầu. Tiếng chiêng mường vang vọng cùng lời mo rì rầm đưa con người về lại với cội nguồn, về với những giá trị cốt lõi từ ngàn xưa… Đó là văn hóa Mường, là di sản, kho báu tinh thần của cộng đồng người Mường Hòa Bình cũ, nay là tỉnh Phú Thọ.

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu là một nghi thức quan trọng trong lễ cưới của đồng bào Dao đỏ ở bản Nậm Sáng, xã Mường Than, tỉnh Lai Châu. Trải qua thời gian cùng những thăng trầm của lịch sử, đến nay, người Dao đỏ nơi đây vẫn giữ được nghi thức truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Cô dâu mặc trang phục truyền thống rực rỡ sắc màu. Đoàn đón dâu nhà trai phải chuẩn bị một đội kèn trống gồm 4 người, đây là phần không thể thiếu trong nghi lễ đón dâu. Tiếng kèn, trống, chiêng, chũm chọe để chào mừng và thông báo cho tổ tiên, đất trời về sự kiện trọng đại này.

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram tại ấp Cù Lao, xã Hưng Hội (Cà Mau) như một "bảo tàng mỹ thuật" thể hiện tài năng của các nghệ nhân Khmer. Ngôi chùa cũng là một trong những điểm đến văn hóa vô cùng độc đáo tại Cà Mau.

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Bắc Ninh là địa phương sở hữu di sản Thực hành Then được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong dòng chảy văn hóa xứ Kinh Bắc, làn điệu Then vang lên như tiếng gọi của núi rừng, vừa mộc mạc vừa tha thiết. Tại miền đất giàu truyền thống văn hiến này, Then được cộng đồng đón nhận, trân trọng và đưa vào đời sống như một nét đẹp văn hóa; góp phần làm phong phú thêm bức tranh đa sắc màu của vùng đất này.

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Sau khi hợp nhất, không gian phát triển du lịch của tỉnh Đắk Lắk được mở rộng, tạo cơ hội cho các đơn vị, doanh nghiệp du lịch, lữ hành, lưu trú kết nối tiềm năng, lợi thế ở khu vực Đông - Tây. Du khách được trải nghiệm nhiều cung bậc cảm xúc của biển xanh, cát trắng, nắng vàng và đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ cùng những bản sắc văn hóa đặc trưng của đồng bào miền núi.

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Tây Ninh đang từng ngày gìn giữ và phát huy nghề truyền thống làm đầu lân cùng nghệ thuật múa lân sư rồng. Bằng đôi bàn tay khéo léo, các nghệ nhân tỉ mỉ tạo hình những chiếc đầu lân rực rỡ, hòa với nghệ thuật múa lân sư rồng trong các dịp lễ, Tết và chương trình nghệ thuật, tạo nên nét đẹp văn hóa gắn liền với đời sống tinh thần người dân, góp phần bảo tồn và lan tỏa bản sắc văn hóa đặc trưng của địa phương.

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Thôn Xí Thoại (xã Xuân Lãnh, tỉnh Đắk Lắk) được biết đến là nơi lưu giữ nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Ba Na. Không chỉ là nét đẹp văn hóa mang tính bản sắc, nghề dệt ở đây còn là điểm nhấn thu hút du khách trong hành trình khám phá bản sắc văn hóa.