Lễ cưới của người M'nông Gar

Lễ cưới của người M'nông Gar
Đồng bào M’nông Gar hiện nay không còn tục con gái hỏi chồng theo truyền thống của gia đình mẫu hệ nữa, thay vào đó là phong tục “phụ hệ” (trai hỏi vợ). Để có một lễ cưới truyền thống theo phong tục, đôi trai gái phải thực hiện các nghi lễ như sau:
 
Nghi thức bôi rượu pha tiết heo lên trán đôi trai gái trong lễ cưới.
Nghi thức bôi rượu pha tiết heo lên trán đôi trai gái trong lễ cưới.

Lễ dạm hỏi (kep môi): Nhà trai nhờ ông cậu hoặc ông mối trong dòng họ mang lễ vật đến nhà gái để thực hiện lễ dạm hỏi cho con trai mình. Lễ này thường được thực hiện vào buổi tối (khoảng 20-21 giờ), nếu bị nhà gái từ chối thì nhà trai không phải xấu hổ với bon làng. Khi đến nhà gái, nhà trai đặt lên chiếc nia một tô gạo trắng, một con gà mái nướng chín vàng, một chuỗi cườm đeo cổ, một chiếc váy mới dệt. Ông cậu thay mặt nhà trai đặt vấn đề với nhà gái để hỏi vợ cho cháu trai mình. Nhà gái cử ông cậu ra tiếp lễ và yêu cầu nhà trai đọc gia phả (Rõ yau) của dòng họ nhà trai. Sau đó, nhà gái cử ông cậu đọc gia phả của dòng họ mình. Nếu hai bên không cùng một bà tổ, không cùng một dòng họ thì cho phép đôi trai gái được kết hôn với nhau. Tuy vậy, trước khi nhận lễ của nhà trai, cha mẹ cô gái hỏi con gái mình một lần nữa, nếu cô gái đồng ý thì mới nhận lễ. Rồi cha mẹ cô gái bưng ra một ché rượu lớn để làm lễ nhận lời hứa hôn. Thầy cúng đại diện cho nhà gái lấy cần hút ra một tô rượu cần pha tiết gà trống rồi bôi lên cột nhà chính, thần đá bếp, kho thóc, thần đá cửa nhà… khấn báo với các thần linh, tổ tiên về việc nhà gái đã nhận lời hứa hôn với nhà trai. Sau đó hai bên cùng nhau uống rượu vui vẻ và chọn ngày làm lễ hỏi.

Lễ hỏi vợ (Să ur): Sau lễ dạm hỏi một năm, gia đình nhà trai tiến hành làm lễ hỏi vợ cho con trai mình (lễ Să ur). Nhà trai chuẩn bị hai ống đựng măng chua (dưng mpa), một chuỗi cườm (mai), một vòng đồng (kông) và cử một đoàn đi đến nhà gái. Đến nhà gái, nhà trai đặt mọi lễ vật lên một cái nia và xin phép nhà gái được làm lễ hỏi vợ cho con trai mình. Bên nhà gái cử ông cậu tiếp nhận lễ vật và chấp thuận cho nhà trai được làm lễ hỏi vợ. Tiếp đến, bà mối bên nhà trai đeo chuỗi cườm cho cô gái và đeo vòng bạc vào cổ chàng trai. Với nghi thức này, hai bên nhà trai và nhà gái công nhận đôi trai gái chính thức trở thành vợ chồng. Lúc này nhà gái mang ra một ché rượu lớn và một con gà trống thiến để làm lễ báo với thần linh, tổ tiên, ông bà. Rồi thầy cúng lấy rượu cần pha tiết gà bôi lên trán đôi trai gái nhằm công nhận đôi vợ chồng trẻ là người cùng một nhà, như “chim đã có đôi”, như “ché rượu đã cắm cần”, như “bếp đã có nồi” không thể chia lìa nhau được. Sau nghi lễ này, hai gia đình cùng nhau uống rượu và bàn chuyện lễ cưới cho đôi trai gái.

Lễ cưới bên nhà gái (nar tăm sai): Sau lễ hỏi khoảng 10 ngày, thì hai bên nhà trai, nhà gái cùng làm lễ cưới cho con mình. Đầu tiên là lễ cưới tại nhà gái. Nhà gái chuẩn bị 100 gùi gạo giã trắng như bông, 100 ché rượu, thui một con bò, ba con heo để cúng thần linh, tổ tiên, ông bà và đãi bà con hai họ cùng bà con gần xa; đồng thời chuẩn bị 50 cái tô, 50 cái chén, 50 chuỗi cườm để làm quà tặng cha mẹ và bà con dòng họ chú rể. Lễ vật nhà trai mang qua nhà gái gồm có: sáu ché rượu lớn (yang pro); 50 ống nứa đựng măng chua với da trâu (dưng mpar) trong đó có một ống cao và một ống thấp tượng trưng cho đôi vợ chồng; một chuỗi cườm (mai); một cây xà gạc (wiah); một con dao nhỏ (pêh); một cái cuốc nhỏ (wăng), tất cả đựng trong một cái gùi và được trang trí những tua bông chỉ màu khá rực rỡ. Lễ vật của nhà trai mang qua nhà gái còn có một con heo lớn (dài khoảng 7 gang tay), một con gà trống thiến, 10 gùi gạo để nhà gái làm lễ cúng tổ tiên, ông bà và đãi khách trong ngày cưới. Vào lễ, nhà gái thực hiện nghi thức bôi tiết heo pha rượu cần lên các lễ vật của nhà trai mang đến. Tiếp đến là nghi thức trao lễ vật, rồi đến lễ dâng rượu lên tổ tiên, ông bà và thần bảo vệ sức khỏe, hạnh phúc cho đôi trai gái (yang dlăng săh jăl), thần mẹ sinh, cha dưỡng của đôi trai gái (yang mei bă bap rông).

Trong nghi thức căn dặn đôi trai gái (ndăp ntăn), cha mẹ hai bên căn dặn cô dâu, chú rể ăn ở hòa thuận, thương yêu nhau, siêng năng công việc rẫy nương, tôn trọng người thân, sống hòa thuận với bon làng. Tiếp đến là nghi thức cụng đầu (tăm nđâm bôk), hai ông cậu của hai bên kể gia phả của dòng họ mình, nêu những gương tốt của tổ tiên, ông bà cho đôi trai gái học tập. Trong lúc đôi trai gái đang nghe kể gia phả say sưa thì bất ngờ ông mối xô đầu cô dâu, chú rể chạm vào nhau thật mạnh. Đầu của hai người va càng mạnh thì càng tốt ( với ý nghĩa tâm đầu, ý hợp). Sau đó, đôi trai gái thực hiện nghi thức uống rượu và đút cơm cho nhau, trong đó có việc uống chén ớt pha rượu, với ý nghĩa dù cuộc sống có gặp nhiều cay đắng, gian lao vất vả, nhưng không thể làm lung lay tình nghĩa thủy chung của họ. Nghi thức mời cơm cha mẹ hai bên thể hiện sự báo hiếu của đôi bạn trẻ đối với cha mẹ; nghi thức tung gà (rơ tô iêr) thể hiện sự xin lỗi của chủ nhà về những gì sơ suất trong đám cưới con mình. Nghi thức mời rượu là nghi thức đãi khách đến mừng đám cưới của nhà gái, mọi người ăn uống, giao lưu vui vẻ, ai cũng đến đeo vào tay cô dâu, chú rể những chiếc vòng đồng với ý nghĩa chúc mừng đôi bạn trẻ sống hạnh phúc. Cuối cùng là nghi thức tiễn nhà trai ra về (yơh brê). Nhà gái mang ra một con gà, một ché rượu làm lễ tiễn đưa nhà trai ra về. Con heo (lễ vật của nhà trai mang qua), nhà gái xin gửi lại nhưng nhà trai chỉ nhận một nửa cái đầu heo, rồi vui vẻ xin phép nhà gái ra về.

Sau lễ cưới ở nhà gái được ba ngày là lễ cưới bên nhà trai (rơ dơk săk): các nghi thức lễ cưới bên nhà trai cũng giống như những nghi thức lễ cưới bên nhà gái. Sau đó, cô dâu ở lại nhà chồng trong vòng 7 ngày. Trong những ngày này, cô dâu được nhà trai dẫn đi thăm bà con, họ hàng nhà chồng, đồng thời hòa mình vào cuộc sống gia đình chồng như: nấu cơm, giã gạo, làm rượu, dệt vải, lên rẫy, đi rừng kiếm củi, hái măng… Sau một tuần, cha mẹ cô dâu mang lễ vật (một con gà, một ché rượu) sang nhà trai xin đón đôi trai gái về ở nhà mình.

Lễ cưới của đồng bào M’nông Gar là một phong tục đẹp, đầy tính nhân văn, giàu bản sắc văn hóa, cần được gìn giữ, phát huy trong đời sống cộng đồng.
Báo Điện tử Đắk Lắk

Có thể bạn quan tâm

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Hằng năm, vào ngày Mão tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân xã Đông Cuông, tỉnh Lào Cai rộn ràng tổ chức Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông. Đây là hoạt động truyền thống nhằm tổng kết một năm lao động, sản xuất, những người con quê hương, du khách bày tỏ lòng tri ân với Mẫu Thượng Ngàn, các đấng siêu nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Sáng 23/10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên tổ chức Khai mạc Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh, năm 2025. Sự kiện là hoạt động thiết thực nhằm chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025 - 2030; hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/1945 - 23/11/2025) và 80 năm Ngày Thể thao Việt Nam (27/3/1946 - 27/3/2026).

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Giữa nhịp sống hiện đại đang lan tỏa tới từng bản làng vùng cao, người Dao Tiền ở Bản Sưng, xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình cũ, nay thuộc tỉnh Phú Thọ) vẫn bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có nghi lễ cưới, một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, tín ngưỡng và đạo lý của cộng đồng.

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Chiều 20/10/2025, khoảnh khắc thiêng liêng và xúc động nhất trước thềm lễ hội Katê chính là khi cộng đồng người Chăm làng Hữu Đức (Phước Hữu, Khánh Hòa) trang trọng đón nhận y trang từ người anh em Raglai. Đây không chỉ là một nghi lễ, mà còn là một minh chứng sống động cho mối giao hảo bền chặt, độc đáo đã được trao truyền qua nhiều thế hệ trên mảnh đất đầy nắng và gió. 

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Những ngày này, từ các tuyến phố trung tâm cho đến tận các thôn bản nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Tuyên Quang đều rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ, băng rôn chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là kỳ Đại hội đầu tiên sau khi hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, là sự kiện chính trị trọng đại, thể hiện ý chí, niềm tin và khát vọng của gần 1,9 triệu đồng bào các dân tộc trong tỉnh cùng hướng tới tương lai.

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer tỉnh Cà Mau hiện có trên 32 nghìn hộ với gần 140 nghìn nhân khẩu, chiếm gần 6,5% dân số toàn tỉnh. Những ngày này, tại các địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, không khí chào đón lễ Sene Dolta, một trong những lễ hội truyền thống quan trọng và mang đậm bản sắc văn hóa của người Khmer, diễn ra rộn ràng. 

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Tại miền đất Quảng Ngãi, các làn điệu dân ca H’rê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc. Để những giai điệu này không bị lãng quên, vai trò của người phụ nữ dân tộc H’rê vô cùng to lớn. Họ là những nghệ nhân thầm lặng, miệt mài gìn giữ và lan tỏa tình yêu với âm nhạc truyền thống, biến những lời ca thành sợi dây kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ và hiện tại.

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Trong không gian bảng lảng khói sương của núi rừng, của bản làng, bên những ngôi nhà sàn gỗ, những mế (phụ nữ lớn tuổi), ẻm (cô gái trẻ) trong trang phục áo pắn (áo ngắn), váy dài quấn kết hợp với cạp váy dệt hoa văn tinh xảo, đeo tênh (thắt lưng), xà tích và vấn khăn trắng trên đầu. Tiếng chiêng mường vang vọng cùng lời mo rì rầm đưa con người về lại với cội nguồn, về với những giá trị cốt lõi từ ngàn xưa… Đó là văn hóa Mường, là di sản, kho báu tinh thần của cộng đồng người Mường Hòa Bình cũ, nay là tỉnh Phú Thọ.

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu là một nghi thức quan trọng trong lễ cưới của đồng bào Dao đỏ ở bản Nậm Sáng, xã Mường Than, tỉnh Lai Châu. Trải qua thời gian cùng những thăng trầm của lịch sử, đến nay, người Dao đỏ nơi đây vẫn giữ được nghi thức truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Cô dâu mặc trang phục truyền thống rực rỡ sắc màu. Đoàn đón dâu nhà trai phải chuẩn bị một đội kèn trống gồm 4 người, đây là phần không thể thiếu trong nghi lễ đón dâu. Tiếng kèn, trống, chiêng, chũm chọe để chào mừng và thông báo cho tổ tiên, đất trời về sự kiện trọng đại này.

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram tại ấp Cù Lao, xã Hưng Hội (Cà Mau) như một "bảo tàng mỹ thuật" thể hiện tài năng của các nghệ nhân Khmer. Ngôi chùa cũng là một trong những điểm đến văn hóa vô cùng độc đáo tại Cà Mau.

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Bắc Ninh là địa phương sở hữu di sản Thực hành Then được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong dòng chảy văn hóa xứ Kinh Bắc, làn điệu Then vang lên như tiếng gọi của núi rừng, vừa mộc mạc vừa tha thiết. Tại miền đất giàu truyền thống văn hiến này, Then được cộng đồng đón nhận, trân trọng và đưa vào đời sống như một nét đẹp văn hóa; góp phần làm phong phú thêm bức tranh đa sắc màu của vùng đất này.

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Sau khi hợp nhất, không gian phát triển du lịch của tỉnh Đắk Lắk được mở rộng, tạo cơ hội cho các đơn vị, doanh nghiệp du lịch, lữ hành, lưu trú kết nối tiềm năng, lợi thế ở khu vực Đông - Tây. Du khách được trải nghiệm nhiều cung bậc cảm xúc của biển xanh, cát trắng, nắng vàng và đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ cùng những bản sắc văn hóa đặc trưng của đồng bào miền núi.

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Tây Ninh đang từng ngày gìn giữ và phát huy nghề truyền thống làm đầu lân cùng nghệ thuật múa lân sư rồng. Bằng đôi bàn tay khéo léo, các nghệ nhân tỉ mỉ tạo hình những chiếc đầu lân rực rỡ, hòa với nghệ thuật múa lân sư rồng trong các dịp lễ, Tết và chương trình nghệ thuật, tạo nên nét đẹp văn hóa gắn liền với đời sống tinh thần người dân, góp phần bảo tồn và lan tỏa bản sắc văn hóa đặc trưng của địa phương.

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Thôn Xí Thoại (xã Xuân Lãnh, tỉnh Đắk Lắk) được biết đến là nơi lưu giữ nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Ba Na. Không chỉ là nét đẹp văn hóa mang tính bản sắc, nghề dệt ở đây còn là điểm nhấn thu hút du khách trong hành trình khám phá bản sắc văn hóa.