Lễ Xăng Khan trong tâm thức của đồng bào Thái Nghệ An

Lễ Xăng Khan trong tâm thức của đồng bào Thái Nghệ An
Nghi lễ này được bảo lưu và trao truyền từ đời này sang đời khác và trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt văn hóa của đồng bào dân tộc Thái ở khu vực miền Tây Nghệ An.

Theo tiếng Thái, “xăng khan” là dặn dò và đáp lời, người Thái cho rằng “Xăng” là lời nhắn của ông mo thầy (nài khù) đã khuất đối với ông mo đã được dạy nghề (lực xít) còn sống, Khan là lời hứa của lực xít hứa hẹn để làm những điều tốt lành hơn cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Lễ Xăng Khan là ngày tạ ơn tổ tiên, tạ ơn các thầy mo (pó pù) đã dạy cách bốc thuốc, chữa bệnh và cứu người và tạ ơn thần linh đã phù hộ cho mo cứu chữa người bị bệnh.
 
Một nghi thức trong lễ hội Xăng Khan ở huyện Quỳ Châu (tỉnh Nghệ An). Ảnh: Báo Nhân dân.
Một nghi thức trong lễ hội Xăng Khan ở huyện Quỳ Châu (tỉnh Nghệ An).
Ảnh: Báo Nhân dân.

Thông thường cứ 3 - 5 năm một lần, vào khoảng tháng 11, 12 hoặc vào mùa xuân, tháng 2, tháng 3 (theo cách tính lịch của người Thái), khi mùa màng đã thu hoạch xong, các thầy mo lại tổ chức Lễ hội Xăng Khan. Thời gian thực hiện các nghi lễ diễn ra từ 2 - 3 ngày tại gia đình của thầy mo.

Để tổ chức được một lễ Xăng Khan, trước đó, gia đình ông Mo đã phải chuẩn bị lương thực, thực phẩm như: Tiền, gạo, gà tối thiểu hàng chục con, lợn một con trên 50kg, rượu siêu, rượu cần (rượu trấu) trên vài chục vò,...Công tác chuẩn bị được tiến hành hàng năm trước đó tùy theo điều kiện của mỗi gia đình.

Lễ vật chuẩn bị cho Nghi lễ Xăng Khan gồm có: một mâm cúng gồm: 01 đĩa trầu cau, 02 chai rượu, 04 chén nhỏ, 01 đĩa hoa thờ gọi là “Khẳn hà”, một cuộn sợi vải trắng gọi là “phài coóng ó”, một cái kiếm dài gọi là “đáp”, một bát gạo đầy trong có một quả trứng gà sống đặt trên miệng bát, những thỏi đồng hoặc bạc gọi là “ngân xiên” (thanh bạc, bạc thanh), một ngọn nến bằng sáp ong thắp đỏ hoặc đèn…tất cả được bày trên một cái mâm nhôm có lót một tấm vải thô (vải mộc của đồng bào dân tộc) gọi là “phướn khài”.

Lễ vật chuẩn bị cho Nghi lễ Xăng Khan gồm có: một mâm cúng gồm: 01 đĩa trầu cau, 02 chai rượu, 04 chén nhỏ, 01 đĩa hoa thờ. Ảnh: Báo Dân trí.
Lễ vật chuẩn bị cho Nghi lễ Xăng Khan gồm có: một mâm cúng gồm: 01 đĩa trầu cau, 02 chai rượu, 04 chén nhỏ, 01 đĩa hoa thờ. Ảnh: Báo Dân trí.

Về đồ lễ nghi, không thể thiếu được cây hoa gọi là cây “xằng tang” hay còn gọi là cây boọc mạy. Cây làm từ thân cây tre hoặc nứa được trang trí đẹp mắt với nhiều hoa văn, họa tiết, nhuộm màu xanh đỏ, tím vàng xâu lại xen kẽ lẫn nhau, được trai gái bản lấy từ rừng về nhuộm nhiều màu. Cây xằng tang là một biểu trưng quan trọng của Lễ Xăng Khan. Nhìn vào số lượng cây xằng tang được treo trên kèo nhà ông mo, mọi người biết được uy tín của ông mo.
 
Bên cạnh cây xằng tang còn có tháp 9 tầng được làm bằng khung nứa, chằng các sợi tơ nhiều màu gọi là “cầu thàn” (chín tầng), có bụng cá làm bằng khung nứa theo hình một con cá gọi là “pụm pa”, có làn ghế ngồi của ma chủ mường môn…gồm ba kiếm gỗ cột chéo nhau gọi là “tặng kẹo” và còn có cây “xằng boọc” là những bông hoa tươi được hái từ trong rừng. Ngoài ra còn có những chiếc ô vải hình vuông trang trí các cạnh có viền rua bằng các sợi vải hoặc thắt các con sót trúc nhỏ, gọi là “cúp hồm” (nón che) được quy định số lượng.

Để tổ chức Lễ Xăng Khan, các thầy mo cử ra một ban hành lễ gồm “chà kháy”, “chà cống”, bộ phận “bào tồn ô”, “xảo chìa pô”, mỗi người được phân công nhiệm vụ riêng như: Thầy mo có mo chủ (làm chủ tế) và các mo bạn “làm bồi tế”. Số lượng mo bạn nhiều hay ít tùy thuộc vào khả năng gia đình mo chủ mời và quy mô của cuộc lễ. Mo chủ và các mo bạn thay nhau đọc các bài cúng và đóng các vai ma. Mo chủ chịu trách nhiệm đọc các bài cúng và đóng các vai ma quan trọng. Ngoài mo chủ còn có mo khu (Pò khu) là người thầy dạy nghề cho mình cũng được mời về làm chủ tế.  Bộ phận chà kháy, chà cống: Chà kháy là một ông mo thạo việc có nhiệm vụ đánh cồng điều hành các nghi lễ, mời rượu các mo đóng vai ma. Chà cống là những người đánh trống, chiêng, xụp xoẻng. Các cô gái trẻ đánh “tặng boong bù”, múa “cúp hồm” phục vụ các trò diễn, múa hát của các mo khi mời từng bậc thần đến nhập (tương đồng tục lên đồng của người xuôi)...

Nghi lễ Xăng Khan diễn ra trong không khí linh thiêng mang âm hưởng của núi rừng, cũng là một nghi lễ hết sức độc đáo thể hiện bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc Thái ở miền Tây xứ Nghệ. Mỗi ông mo chủ ở mỗi bản, làng, khác nhau thì có cách thức tổ chức Lễ Xăng Khan riêng của mình, song cơ bản đều tiến hành theo các nghi thức chủ yếu sau:

Lễ “Pay toọc tang” (đi tọng ruột cây tang). Theo quan niệm của các thầy mo môn, đây là nghi lễ quan trọng của Lễ Xăng Khan để có nguyên liệu làm cây xằng tang, nên phải đi vào ngày “khỏa ngáng”. Trước khi đi phải mở vò rượu cúng báo cáo với ma nhà và xin ma nhà phù hộ, phải có một số đồ thờ đưa vào rừng nơi có cây tang cúng xin thần rừng. Trước khi chặt cây, ông mo chủ bày lễ vật xin phép thần rừng thần núi. Khi chặt cây tang, ông mo chủ phải chặt trước và làm thận trọng, nhất là việc đẩy ruột bấc của cây tang ra khỏi phần thân gỗ làm sao cho ruột bấc thoát nhanh, tung lên cao và không nát vụn ra để cầu may cho lễ hội của mình được tốt đẹp. Ruột bấc cây tang đem về được cắt ra thành từng khúc, từng mẩu nhuộm thành nhiều màu (màu được tạo ra bằng các loại vỏ cây, lá cây được nấu nhừ rồi cô lại, sau đó pha theo công thức truyền thống trở thành các màu theo ý muốn) để làm các thứ như: Dây tàng xoi, dây xái mường, cành hoa tang chò, các con chim, con vật.

Cây tre để làm cột trụ cây hoa phải chọn những cây tre già, có ngọn hướng về phía mặt trời mọc, tránh chặt cây có dây leo vấn quanh thân cây. Cây tre làm cột trụ cây hoa, đoạn gốc được chẻ thành nhiều phần và uốn tạo tượng trưng những chiếc rễ vững chãi để mưa to gió lớn cũng không đổ. Độ cao của cây xằng tang trong mỗi lần ông mo tổ chức lễ hội không giống nhau, lần thứ nhất cây hoa có thể cao từ 1,4 m đến 1,5 m, các lần tiếp theo thì làm cao dần hơn lần trước. Trên cây tre, người ta đục khoét nhiều lỗ để cắm các nhành hoa, các loại quả, chim, muông thú tượng trưng. Tre, nứa được chặt hoặc chẽ ra để làm ống đựng nước uống rượu cần, đan các mâm lễ, đan hình các con chim, con vật như “tô chắc chằn” (con ve sầu), “nộc cá léo” (chim quạ), “ngua pà” (bò rừng)… Các hình hoa, quả, muông thú được làm từ nhiều nguyên liệu như tre, nứa, bấc cây tang, cây sắn, ruột bầu phơi khô hay các hình vẽ trên giấy. Các con vật được nhuộm màu xanh, đỏ, tím, vàng... sặc sỡ, sinh động,... Tất cả các thứ nói trên làm được đến đâu thì gom lại, dắt hay treo trên quanh vách nhà, hoặc các cột nhà, không được để vương vãi trên nền nhà và phải hoàn tất trước ngày vào hội. Ngoài cây xằng tang, người ta còn dựng hai cây mía để nguyên lá và một cây xằng bọoc là cây hoa thật được cắm và trang trí vào nhiều loại hoa rừng.

Và vật không thể thiếu trong lễ hội là cây Boọc mạy được dựng ngay giữa nhà là nơi để hành lễ. Ảnh: Báo Dân trí.
Và vật không thể thiếu trong lễ hội là cây Boọc mạy được dựng ngay giữa nhà là nơi để hành lễ. Ảnh: Báo Dân trí.

Lễ đón “mo khu”, “mo bạn” (mo thầy, mo bạn): Trước 3 ngày mở lễ hội, mo chủ đi mời mo khu và các mo bạn. Đến giờ hẹn, pò khu và mo bạn cùng vợ và các xảo chớ mang theo đồ hành nghề (quạt và kiếm) đến ông mo chủ. Khi đến ngõ, xảo chớ đánh cồng báo hiệu. Mo chủ ra mời khách vào nhà với thái độ hết sức khiêm tốn, thể hiện lòng kính trọng. Khi pò khu, mo bạn và khách khứa vào nhà xong, mo chủ mở vò rượu khấn xin ma nhà được đón tiếp pò khu và các mo bạn đến giúp lễ. Khách ngồi quanh vò rượu cần khấn xin ma nhà của mình được giúp mo chủ làm lễ, rồi cùng uống trong không khí cộng cảm thiêng liêng. Sau vài tuần rượu, mọi người sửa soạn vào nghi thức xạc húa (gội đầu).

Theo phong tục, trước khi vào làm việc cúng tế, mọi người phải ra suối gội đầu, gọi là xạc húa, tẩy trần cho hồn vía được mát mẻ, khỏe mạnh, sạch sẽ, nếu không thì tổ tiên và thần linh trách phạt, việc hành lễ sẽ khó thành. Thành phần làm lễ xạc húa có mo khu tay cầm nến đỏ, lưng đeo kiếm, đầu chít khăn thổ cẩm đỏ đi trước, tiếp sau là các mo bạn, mo chủ. Đi sau mỗi mo là các xáo chơ, bào chơ bưng đĩa trầu cau, rượu, chậu nước gạo có bồ kết, người cầm cúp hồm, cầm cồng. Vừa đi vừa đánh cồng, đến nơi nguồn nước, mọi người dừng lại đứng quanh mo khu. Mo khu khấn xin “bò nậm” (thần nguồn nước). Khấn xong, mo khu hiến rượu, hiến trầu cau xuống suối, rồi lấy nước suối vào chậu nước bồ kết và nhúng tay vào chậu, lấy nước lần lượt xoa lên chỏm đầu cho từng người một. Gội đầu xong, các mo rút kiếm ra rửa nước suối, vì họ tin rằng, nếu kiếm được rửa cẩn thận sẽ sắc hơn, linh nghiệm hơn khi diệt ma tà.

Sau lễ gội đầu, mọi người trở về nhà sửa soạn vào lễ khảy đản. Đây là nghi lễ quan trọng nhất trong Nghi lễ Xăng Khan. Bắt đầu vào buổi lễ Chà kháy đến ngồi cạnh “tặng kẹo”, dóng lễ một hồi trống dài. Các mo đến ngồi quanh “phướn khài”, sửa sang lại khăn chít đầu, rút kiếm ra đặt vào phướn khài, một tay cầm quạt, một tay cầm ngọn nến, ngồi nghe mo khu đọc bài cúng “bắc châu hinh”, châu là chủ, hinh là bàn thờ (nơi ở của ma chủ nhà), theo điệu xến để mời tổ tiên ở bàn thờ môn xuống kiểm tra việc chuẩn bị lễ của con cháu, cúng báo cho các ma ở mường trời biết gia đình có tổ chức Lễ Xăng Khan và mời về hưởng lễ và báo cho tất cả các ma núi, ma sông, ma thổ địa, thổ công biết và xin đừng quấy phá để cuộc lễ được kết quả tốt đẹp,…

Cúng xong, cầm lấy xe rượu và dắt cây sáp đỏ lên cần của mình làm thành một vòng hoa đăng quanh chum rượu và cùng uống say sưa theo lời nhuôn mời của các mo hòa lẫn với tiếng nhạc đệm của trống chiêng vang vọng cả một vùng rừng núi dưới ánh sáng huyền ảo, lung linh của các ngọn nến, đây cũng được xem là phần hội đan xen phần lễ.

Đến nửa đêm thì tổ chức lễ dựng cây tang, trong tiếng Thái có nghĩa là púc xằng tang. Khi thời khắc sang ngày mới vừa đến, chà kháy liền nổi cồng liên tục. Nghe tiếng cồng giục giã, mọi người tập trung về giữa nhà. Cây xăng tang đã được đưa ra đặt sẵn giữa nhà, gốc cây tựa xuống sàn nhà, ngọn cây hướng lễ phía trong bàn thờ. Con cháu xúm lại hai bên đưa tay đỡ cây tre. Vợ chồng mo chủ đứng dưới gốc cây với hàm ý mo chủ phải gánh vác nhiều. Những người còn lại lấy các thứ: Tang xòi, tang chò, chim, thú vật và hoa tươi đã chuẩn bị cắm vào các lỗ hổng của cây. Ngoài ra họ còn treo các dụng cụ sinh hoạt như sọt, chõ đựng xôi lên cây. Các mo đứng vòng quanh giơ kiếm, đầu mũi có nến sáng, vừa soi, vừa cao giọng đọc bài cúng theo điệu nhuôn. Các xáo chơ cầm cúp hụm múa vòng quanh. Tiếng cồng, chiêng thi nhau nổi lên như giục giã mọi người khẩn trương lên cho cây hoa kịp dựng lên đón các thần linh về dự lễ ngay từ giờ đầu của ngày mới .

Khi mọi thứ đã được cắm hết vào cây, mo khu hô lên một tiếng lớn “púc xằng tang” (dựng cây hoa). Cây hoa từ từ được nâng lên đứng thẳng giữa nhà, khi cây xăng tang đã được dựng lên vừa ý, người ta buộc vào đầu cây xăng tang một dây xái mường dài trên 10m và đầu còn lại cho thòng xuống giữa phướn khài để làm đường lên xuống cho các thần linh về dự lễ. Phía dưới chân cây được cột vào 3 vò rượu, 1 vò to và 2 vò nhỏ, để tượng trưng cho ba mường: mường phà, mường lum và mường piếng. Khi cây xăng khan đã dựng, nến đã thắp lên, không ai được đụng vào nữa, vì đây là vật thiêng. Bên cạnh đó, công tác bày biện mâm lễ cũng được các mo đọc bài xướng các vật phẩm và hướng dẫn mọi người soan lễ để đặt lên bàn thờ để mời các ma về hưởng lễ, tất cả các hoạt động tạo cho không khí lễ hội thêm tấp nập, nhộn nhịp. Tiếng trống, tiếng cồng, chiêng ngày càng vang xa. Nhạc điệu lời cúng của các mo cũng ngày càng du dương, thiết tha hơn càng làm cho mọi người như được thăng hoa lên trong không gian thiêng của lễ hội.

Kết thúc lễ cũng ma nhà là lễ cúng mời mà Tạo mường ở trên trời về dự lễ cùng gia đình, tiếng Thái gọi là  bắc tôn hình (lễ cúng mời ma về dự lễ). Cứ mỗi nhóm ma ( hoặc gọi là Phí giống như  thần của mgười Kinh thường gọi) xuống gọi là một “muột” (Tốp), thứ tự là các loại thần linh gắn với từng ước mơ cũng của đồng bào dân tộc Thái. Bên cạnh đó thì các thầy mo cũng đọc những bài cúng ca ngợi vẻ đẹp cây xằng tang gọi là Lễ Chánh tang.

Ngoài các nghi lễ trên, trong Lễ hội Xăng Khan còn tổ chức một số nghi lễ khác như: Lễ cúng ma rừng để nhân dân được yên ổn làm ăn; Lễ cầu yên để các gia đình được an khang vật thịnh; Lễ thử thần trứng (nàng ò) để biết được tài nghệ của các thầy mo; Lễ xiểng xưa, nghĩa là bói áo; Lễ cuột xiểng vắn nọc noong (kiểm tra vía con cháu), Lễ áo nhông pê lầu (thần Khơ mú mang lễ về trời) và cuối cùng là Lễ păm xăng tang (hạ cây tang). Kết thúc nghi lễ, chủ nhà là người trực tiếp hái hoa đem tặng cho mọi người, mỗi bông hoa là một phần thưởng tượng trưng cho bổng lộc và sự may mắn trong cuộc sống. Bằng lời hát chia tay thắm thiết hẹn kỳ hội sau gặp lại và lúc này trời cũng vừa sáng, mọi người trở về tiếp tục với công việc hàng ngày của mình.

Xăng Khan là một nghi lễ mang đậm bản sắc văn hoá tâm linh tiêu biểu trong sinh hoạt đời sống của đồng bào dân tộc Thái miền Tây Nghệ An. Ảnh: Báo Dân trí.
Xăng Khan là một nghi lễ mang đậm bản sắc văn hoá tâm linh tiêu biểu trong sinh hoạt đời sống của đồng bào dân tộc Thái miền Tây Nghệ An. Ảnh: Báo Dân trí.

Lễ Xăng Khan không những có nhiều nghi thức, nghi lễ mà còn có rất nhiều trò diễn, trò vui. Cứ sau mỗi nghi lễ là một trò diễn minh họa cho nội dung của nghi lễ, mô phỏng lại các hành vi của các thần linh, các ma có trong nghi lễ đó. Hết nghi lễ này, trò diễn này lại đến nghi lễ khác, trò diễn khác, cứ như thế cho đến lúc tan hội với nhiều trò diễn xướng độc đáo như: Múa, hát nhuôn, hát xuối, khắc luống, đánh cồng chiêng, gõ boong bu, thổi khèn …

Xăng Khan là một nghi lễ mang đậm bản sắc văn hoá tâm linh tiêu biểu trong sinh hoạt đời sống của đồng bào dân tộc Thái miền Tây Nghệ An. Lễ Xăng Khan tuy là một lễ gần như mang tính nghề nghiệp để cầu yên báo đáp ơn tình của những người làm nghề mo nhưng đã trở thành một sinh hoạt văn hoá rất được đồng bào dân tộc Thái miền Tây Nghệ An quan tâm và hồ hởi chờ đón. Xuất phát từ ý nghĩa trên nên mỗi khi ở bản làng nào đó có Lễ Xăng Khan thực sự là ngày hội tưng bừng đối với mọi người. Cũng từ lễ này, những điệu nhảy, những câu hát mang hình thức diễn xướng đã được nhiều đơn vị nghệ thuật quần chúng phát triển thành những tiết mục văn nghệ mang tính nghệ thuật truyền thống đáp ứng nhu cầu thưởng thức của mọi người trong các kỳ hội diễn hàng năm. Với sự độc đáo của nghi lễ, kết hợp với việc bào tồn phát huy tốt, Lễ Xăng Khan đã được Bộ Văn hóa, Thể thao  và Du lịch đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2017.

Theo thegioidisan.vn

Có thể bạn quan tâm

Quảng bá thương hiệu trà Shan tuyết

Quảng bá thương hiệu trà Shan tuyết

Ngày 5/11, tại Nhà văn hóa Trung tâm, phường An Tường (Tuyên Quang), Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tuyên Quang tổ chức Hội thi sản phẩm trà Shan tuyết và kỹ thuật pha chế trà năm 2025.

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Hằng năm, vào ngày Mão tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân xã Đông Cuông, tỉnh Lào Cai rộn ràng tổ chức Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông. Đây là hoạt động truyền thống nhằm tổng kết một năm lao động, sản xuất, những người con quê hương, du khách bày tỏ lòng tri ân với Mẫu Thượng Ngàn, các đấng siêu nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Sáng 23/10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên tổ chức Khai mạc Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh, năm 2025. Sự kiện là hoạt động thiết thực nhằm chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025 - 2030; hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/1945 - 23/11/2025) và 80 năm Ngày Thể thao Việt Nam (27/3/1946 - 27/3/2026).

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Giữa nhịp sống hiện đại đang lan tỏa tới từng bản làng vùng cao, người Dao Tiền ở Bản Sưng, xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình cũ, nay thuộc tỉnh Phú Thọ) vẫn bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có nghi lễ cưới, một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, tín ngưỡng và đạo lý của cộng đồng.

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Chiều 20/10/2025, khoảnh khắc thiêng liêng và xúc động nhất trước thềm lễ hội Katê chính là khi cộng đồng người Chăm làng Hữu Đức (Phước Hữu, Khánh Hòa) trang trọng đón nhận y trang từ người anh em Raglai. Đây không chỉ là một nghi lễ, mà còn là một minh chứng sống động cho mối giao hảo bền chặt, độc đáo đã được trao truyền qua nhiều thế hệ trên mảnh đất đầy nắng và gió. 

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Những ngày này, từ các tuyến phố trung tâm cho đến tận các thôn bản nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Tuyên Quang đều rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ, băng rôn chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là kỳ Đại hội đầu tiên sau khi hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, là sự kiện chính trị trọng đại, thể hiện ý chí, niềm tin và khát vọng của gần 1,9 triệu đồng bào các dân tộc trong tỉnh cùng hướng tới tương lai.

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer tỉnh Cà Mau hiện có trên 32 nghìn hộ với gần 140 nghìn nhân khẩu, chiếm gần 6,5% dân số toàn tỉnh. Những ngày này, tại các địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, không khí chào đón lễ Sene Dolta, một trong những lễ hội truyền thống quan trọng và mang đậm bản sắc văn hóa của người Khmer, diễn ra rộn ràng. 

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Tại miền đất Quảng Ngãi, các làn điệu dân ca H’rê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc. Để những giai điệu này không bị lãng quên, vai trò của người phụ nữ dân tộc H’rê vô cùng to lớn. Họ là những nghệ nhân thầm lặng, miệt mài gìn giữ và lan tỏa tình yêu với âm nhạc truyền thống, biến những lời ca thành sợi dây kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ và hiện tại.

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Trong không gian bảng lảng khói sương của núi rừng, của bản làng, bên những ngôi nhà sàn gỗ, những mế (phụ nữ lớn tuổi), ẻm (cô gái trẻ) trong trang phục áo pắn (áo ngắn), váy dài quấn kết hợp với cạp váy dệt hoa văn tinh xảo, đeo tênh (thắt lưng), xà tích và vấn khăn trắng trên đầu. Tiếng chiêng mường vang vọng cùng lời mo rì rầm đưa con người về lại với cội nguồn, về với những giá trị cốt lõi từ ngàn xưa… Đó là văn hóa Mường, là di sản, kho báu tinh thần của cộng đồng người Mường Hòa Bình cũ, nay là tỉnh Phú Thọ.

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu là một nghi thức quan trọng trong lễ cưới của đồng bào Dao đỏ ở bản Nậm Sáng, xã Mường Than, tỉnh Lai Châu. Trải qua thời gian cùng những thăng trầm của lịch sử, đến nay, người Dao đỏ nơi đây vẫn giữ được nghi thức truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Cô dâu mặc trang phục truyền thống rực rỡ sắc màu. Đoàn đón dâu nhà trai phải chuẩn bị một đội kèn trống gồm 4 người, đây là phần không thể thiếu trong nghi lễ đón dâu. Tiếng kèn, trống, chiêng, chũm chọe để chào mừng và thông báo cho tổ tiên, đất trời về sự kiện trọng đại này.

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram tại ấp Cù Lao, xã Hưng Hội (Cà Mau) như một "bảo tàng mỹ thuật" thể hiện tài năng của các nghệ nhân Khmer. Ngôi chùa cũng là một trong những điểm đến văn hóa vô cùng độc đáo tại Cà Mau.

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Bắc Ninh là địa phương sở hữu di sản Thực hành Then được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong dòng chảy văn hóa xứ Kinh Bắc, làn điệu Then vang lên như tiếng gọi của núi rừng, vừa mộc mạc vừa tha thiết. Tại miền đất giàu truyền thống văn hiến này, Then được cộng đồng đón nhận, trân trọng và đưa vào đời sống như một nét đẹp văn hóa; góp phần làm phong phú thêm bức tranh đa sắc màu của vùng đất này.