Phục hưng trà Lâm Đồng

Không chỉ là một sản phẩm nông nghiệp, trà Lâm Đồng từng là biểu tượng của vùng đất nam Tây Nguyên - nơi hội tụ tinh hoa khí hậu, đất đai, bàn tay và khối óc con người. Nhưng giữa vòng xoáy thị trường và những biến động của chuỗi cung ứng, vùng chè một thời vang danh đang đối mặt với sự thu hẹp vùng nguyên liệu, thiếu hụt nội lực và áp lực tái định vị. Từ thực trạng này, một hành trình tái sinh đã khởi động - bằng sự khát vọng giữ lại bản sắc từ những đồi chè xanh ngát và bản lĩnh của những doanh nghiệp Việt.

lam-dong-1506.jpg
Diện tích trồng chè tại Bảo Lộc (Lâm Đồng). Ảnh: Phạm Kha/TTXVN

Niềm tự hào đang bên đồi dốc đứng

Từ những đồi chè từng được xem là biểu tượng của chất lượng cao, ngành trà Lâm Đồng nay đang chật vật trong cuộc chiến giữ lại vùng nguyên liệu, duy trì bản sắc và tìm lại chỗ đứng giữa một thị trường đầy biến động. Không chỉ đối diện với sự thu hẹp diện tích và thiếu hụt nhân lực, các doanh nghiệp địa phương còn phải vượt qua những rào cản về chất lượng, liên kết và niềm tin.

Từng được xem là “thủ phủ chè chất lượng cao” của Việt Nam, ngành chè Lâm Đồng - đặc biệt tại Bảo Lộc, Bảo Lâm, Di Linh - nay đang đối mặt với nguy cơ đánh mất vị thế. Theo Chi hội Chè Lâm Đồng, đến năm 2025, toàn tỉnh chỉ còn khoảng 12.000 ha vùng nguyên liệu, giảm mạnh so với hơn 26.000 ha trước đây. Gần như không có vùng nguyên liệu nào được tổ chức theo mô hình tập trung, quy mô lớn, đạt chuẩn quốc tế.

Ông Nguyễn Việt Nam - Phó Chủ tịch UBND TP Bảo Lộc cho biết, sản lượng chè của thành phố hiện chỉ đạt khoảng 7.500 tấn/năm, giảm sâu so với đỉnh cao 25.000 tấn/năm. Phần lớn chỉ sơ chế nên giá trị gia tăng rất thấp. Bảo Lộc có khoảng 160 doanh nghiệp và cơ sở chế biến trà, nhưng chỉ 72 doanh nghiệp là hội viên Chi hội Chè Lâm Đồng và chỉ 14 là hội viên của Hiệp hội Chè Việt Nam. Tỷ lệ thấp cho thấy sự rời rạc, thiếu liên kết và không có sức bật tập thể.

Chủ tịch Chi hội Chè Lâm Đồng, Giám đốc Công ty TNHH Trà Con Nai Vàng Thiên Thành Trần Đại Bình chia sẻ, đây là giai đoạn khó khăn nhất của ngành trong hơn 20 năm qua. Không chỉ diện tích, mà chất lượng nguyên liệu, nhân lực kỹ thuật, giá cả và uy tín đều đang sụt giảm.

Phần lớn doanh nghiệp vẫn phụ thuộc vào vùng nguyên liệu nhỏ lẻ do hộ nông dân trồng, dẫn tới khó kiểm soát chất lượng, truy xuất nguồn gốc yếu, không đạt chuẩn xuất khẩu. Trong khi đó, trà từ các tỉnh phía Bắc có giá nguyên liệu rẻ hơn 20 - 30%, dễ dàng cạnh tranh ngay trên thị trường miền Nam.

Thêm vào đó, nhiều doanh nghiệp nhà nước từng sở hữu vùng nguyên liệu lớn đã ngừng hoạt động, đất đai chuyển đổi mục đích. Các giống chè Oolong, TB14, LĐ97 giảm dần. Giá chè xuất khẩu trung bình của Việt Nam hiện chỉ khoảng 1.600 - 1.750 USD/tấn - thấp hơn 25 - 60% so với Kenya hay Sri Lanka.

Thu hái chè tại Lâm Đồng. Ảnh: Kha Phạm/TTXVN

Thu hái chè tại Lâm Đồng. Ảnh: Kha Phạm/TTXVN

Dù nhiều nông dân đã bỏ chè để chuyển sang cây có lợi nhuận cao hơn, vẫn có những doanh nghiệp tư nhân kiên trì giữ nghề, duy trì vùng nguyên liệu. Ông Bình chia sẻ: “Buông tay là mất đất trồng trà, mất truyền thống, kỹ nghệ và hệ sinh thái văn hóa địa phương. Vì vậy, chúng tôi cần tiếp sức mạnh mẽ từ chính quyền và hiệp hội ngành hàng, chứ không thể tự bơi mãi”.

Theo Chi hội Chè Lâm Đồng, đến năm 2025, toàn tỉnh chỉ còn khoảng 12.000 ha vùng nguyên liệu, giảm mạnh so với hơn 26.000 ha trước đây.

Điểm sáng hiếm hoi là một số doanh nghiệp sản xuất trà Oolong vẫn liên kết với nông dân để duy trì nguyên liệu đạt chuẩn Rainforest hoặc hữu cơ. Nhưng số này ít và chỉ đáp ứng thị trường ngách. Trong khi đó, nhu cầu về trà xanh, trà đen, trà sữa... tăng nhanh, nhưng vùng nguyên liệu hiện không đủ chuẩn, không đủ sản lượng.

Một nguyên nhân khác khiến ngành trà Lâm Đồng “lao dốc” là sự cạnh tranh không lành mạnh ngay trong nội bộ doanh nghiệp địa phương. Một số cơ sở làm trà theo yêu cầu đối tác không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh, khiến vụ việc ảnh hưởng tới cả ngành, làm giảm uy tín chung. Điều này cho thấy vai trò điều phối, kiểm soát chất lượng và bảo vệ thương hiệu tập thể vẫn còn rất mờ nhạt.

Giấc mơ về một “phố trà”, một thương hiệu chung

doi-che-lam-dong-15625-10.jpg
Đồi chè tại thôn 7 (xã Đạm B’ri, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng). Ảnh: Nguyễn Dũng/TTXVN

Theo Tiến sĩ Phạm S, nguyên Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng, chuyên gia cao cấp nông nghiệp - ngành chè Lâm Đồng sẽ không thể “tái sinh” nếu chỉ làm theo cách cũ. “Phải thay đổi tư duy - từ phân tán sang liên kết, từ sản xuất thô sang gia tăng giá trị, từ nội địa sang toàn cầu”.

Ông Phạm S đề xuất ba đột phá: Liên kết vùng nguyên liệu lớn có kiểm soát, tổ chức nông dân kiểu mới, áp dụng mã QR, blockchain để truy xuất minh bạch; Đổi mới công nghệ chế biến và đa dạng sản phẩm - phát triển trà matcha, hồng trà, Oolong cao cấp, trà dưỡng sinh cho thị trường Nhật Bản, châu Âu; Gắn nông nghiệp với du lịch trải nghiệm - xây dựng mô hình “vườn trà - xưởng chế biến - nhà trưng bày - homestay”.

Ông Trần Đại Bình chia sẻ, nhiều doanh nghiệp trong Chi hội đã đề xuất thành lập một "Phố trà Lâm Đồng" tại trung tâm Bảo Lộc, nơi trà không chỉ được bán mà còn được kể chuyện, trải nghiệm và kết nối với ẩm thực - văn hóa - thiên nhiên cao nguyên.

Sơ chế trà tại Công ty TNHH Trà Con Nai Vàng Thiên Thành, thành phố Bảo Lộc, Lâm Đồng. Ảnh: Kha Phạm/TTXVN

Sơ chế trà tại Công ty TNHH Trà Con Nai Vàng Thiên Thành, thành phố Bảo Lộc, Lâm Đồng. Ảnh: Kha Phạm/TTXVN

Tuy nhiên, để làm được điều đó, họ cần chính sách ưu đãi về vốn, đất, thuế, cùng sự vào cuộc của chính quyền, để trà không chỉ đi vào siêu thị, mà còn đi vào tour tuyến. Đồng thời, phải có hành lang pháp lý rõ ràng cho thương hiệu tập thể, tránh mạnh ai nấy làm. Ngay cả hoạt động xúc tiến thương mại, giới thiệu sản phẩm cũng phải đổi mới để bắt kịp nhịp thế giới. Thị trường chè toàn cầu còn rất mở, nhu cầu rất lớn.

Trà không đơn thuần là một cây trồng. Trà là biểu tượng của Lâm Đồng - từ sắc xanh của lá, vị đậm của nước, đến tinh thần kiên nhẫn, bền bỉ, thanh sạch trong cách người dân làm nghề. Nhưng để giữ được màu xanh ấy, không thể chỉ trông vào lòng yêu nghề.

Cần một chiến lược phục hưng ngành trà Lâm Đồng từ cấp tỉnh, có quy hoạch rõ ràng, quy chuẩn vùng trồng, nguồn lực thực chất và tầm nhìn dài hạn. Phải tăng được sức cạnh tranh nội tại, nếu không, sẽ đến một lúc, trà Lâm Đồng chỉ còn là hoài niệm.

Từ sản phẩm đến trải nghiệm

doi-che-cau-dat-15625-10.jpg
Những hàng mai anh đào dọc đồi chè Cầu Đất (Đà Lạt). Ảnh: Nguyễn Dũng/TTXVN

Trong bối cảnh ngành trà Lâm Đồng đang tìm đường trở lại với thị trường toàn cầu, những người làm trà hiểu rằng: muốn đi xa, không thể đi một mình. Từ khát vọng làm mới sản phẩm đến nhu cầu xây dựng thương hiệu tập thể, vai trò của các hiệp hội - đặc biệt là Chi hội Chè Lâm Đồng - ngày càng trở nên quan trọng. Nhưng để trở thành “nhạc trưởng” thật sự của ngành hàng, các hiệp hội cần được trao quyền, tiếp sức và đồng hành trong một chiến lược dài hơi, không chỉ dừng ở lời kêu gọi.

Không còn đơn thuần là một nông sản, chè Lâm Đồng đang từng bước định vị lại mình như một phần của trải nghiệm văn hóa và lối sống. Trong bối cảnh thị trường chè thế giới cạnh tranh khốc liệt, những mô hình kết hợp giữa sản xuất, sáng tạo sản phẩm và du lịch trải nghiệm đang mở ra hướng đi mới cho vùng chè cao nguyên.

Tại Bảo Lộc, một số doanh nghiệp trẻ đã bắt đầu tạo nên những câu chuyện trà độc đáo. Họ không chỉ bán trà, mà còn bán hành trình “từ đồi trà đến ly trà và một sự cam kết”. Từ việc mời du khách hái trà tại vườn, tham quan quy trình chế biến, đến thưởng trà giữa đồi cao - tất cả tạo nên một giá trị cộng thêm mà trà Lâm Đồng xưa nay ít khi chạm đến.

Ông Nguyễn Việt Nam, Phó Chủ tịch UBND thành phố Bảo Lộc, nhận định: “Đây chính là lúc ngành chè Bảo Lộc và Lâm Đồng cần chuyển dịch sang mô hình tích hợp giá trị - từ nông nghiệp thuần túy sang du lịch canh nông. Thành phố đang xây dựng đề án phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với du lịch trải nghiệm, trong đó trà là một trong ba trụ cột”.

Bảo Lộc kỳ vọng các tour du lịch trải nghiệm chè sẽ không chỉ mang lại doanh thu, mà còn giúp khôi phục niềm tự hào bản địa và giữ chân người trẻ với nghề. Ông Trần Đại Bình, Chủ tịch Chi hội Chè Lâm Đồng, chia sẻ: “Muốn bán trà với giá cao, phải làm chủ được chuỗi giá trị, từ vùng nguyên liệu sạch, đến công nghệ chế biến chuẩn, thiết kế bao bì đẹp và chiến lược tiếp thị khôn ngoan. Và, điều cần nhất là một chiến lược cạnh tranh lành mạnh và giữ vững uy tín”.

Một số doanh nghiệp tiên phong như Thiên Thành, Kim Điền hay nhóm khởi nghiệp từ Đà Lạt đã thử nghiệm các dòng sản phẩm mới: trà hoa phối hương, trà túi lọc xuất khẩu, matcha thực phẩm… hướng đến thị trường tiêu dùng tinh tế, sẵn sàng trả giá cao cho trải nghiệm.

Trà Lâm Đồng cần một chiến lược bản sắc rõ ràng, thay vì hòa lẫn trong các dòng đại trà - Tiến sĩ Phạm S, nguyên Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng.

Tiến sỹ Phạm S, chuyên gia nông nghiệp công nghệ cao tại Tây Nguyên cho rằng, chè Lâm Đồng có lợi thế thổ nhưỡng, khí hậu, nơi có điều kiện sinh thái lý tưởng cho vùng chè chất lượng cao và năng suất tầm cỡ quốc tế. Điều thiếu nhất chính là một tầm nhìn liên kết. Chúng ta cần liên minh doanh nghiệp và địa phương để xây dựng thương hiệu trà Lâm Đồng có bản sắc, có đẳng cấp và kênh phân phối đủ sức cạnh tranh”.

Các dòng trà Oolong và sản phẩm cao cấp vốn là thế mạnh của Lâm Đồng cũng đang mất dần ưu thế ở phân khúc nội địa. Các vùng chè phía Bắc như Thái Nguyên, Hà Giang, Yên Bái... đã gia tăng sản lượng, chất lượng và tận dụng hiệu quả kênh bán hàng trực tuyến. Trong khi đó, nhiều vùng chè Lâm Đồng tụt hậu với sự thay đổi thị hiếu, sản phẩm thiếu sự khác biệt, chất lượng trà nguyên liệu giảm sút.

“Nhạc trưởng” cho hành trình phục hưng

Sơ chế trà tại Công ty TNHH Trà Con Nai Vàng Thiên Thành, thành phố Bảo Lộc, Lâm Đồng. Ảnh: Kha Phạm/TTXVN

Sơ chế trà tại Công ty TNHH Trà Con Nai Vàng Thiên Thành, thành phố Bảo Lộc, Lâm Đồng. Ảnh: Kha Phạm/TTXVN

Thành phố Bảo Lộc có hơn 160 doanh nghiệp và cơ sở chế biến trà. Tuy nhiên, sự liên kết trong chuỗi giá trị vẫn còn lỏng lẻo. Thành phố đã đề xuất xây dựng “Phố trà” - không gian giới thiệu sản phẩm trà đặc sắc, tổ chức lễ hội, trình diễn nghệ thuật trà và kết nối tour trải nghiệm.

Ông Nguyễn Việt Nam nhấn mạnh, đây sẽ là điểm đến mang tính biểu tượng, giúp chè Lâm Đồng tái định vị trong tâm trí du khách và thị trường xuất khẩu. Đây cũng là nơi để hiệp hội ngành chè kiến tạo không gian liên kết đi đến sự thống nhất về trồng trọt, sản xuất và chất lượng để cùng cạnh tranh lành mạnh.

Cái khó nhất của doanh nghiệp nhỏ và vừa chính là vấn đề vốn, đất và hạ tầng cho mô hình trà kết hợp du lịch; hỗ trợ logistics và chuỗi lạnh cho sản phẩm trà cao cấp; kết nối OCOP - xúc tiến thương mại - thương mại điện tử. Nhiều doanh nghiệp trong Chi hội đề xuất xây dựng chiến lược truyền thông tập thể cho thương hiệu “Trà Lâm Đồng” - có logo, chỉ dẫn địa lý, truy xuất nguồn gốc và chiến dịch truyền cảm hứng mạnh mẽ, tương tự “Đà Lạt - kết tinh kỳ diệu từ đất lành”.

bao-loc-15625-10.jpg
Chương trình nghệ thuật đặc biệt “Bảo Lộc - Hương trà, sắc tơ”, trong khuôn khổ Festival Hoa Đà Lạt lần thứ X năm 2024. Ảnh: Nguyễn Dũng/TTXVN

Hành trình tái sinh ngành trà Lâm Đồng cần một cơ chế tổ chức hiệu quả. Trong đó, vai trò của Chi hội Chè Lâm Đồng là mấu chốt. Tuy nhiên, để thực sự là “nhạc trưởng”, hiệp hội không thể chỉ dừng ở vai trò kết nối. Ông Trần Đại Bình cho biết, Chi hội phải điều phối vùng nguyên liệu, kiểm soát chất lượng, hỗ trợ truy xuất nguồn gốc và xúc tiến thị trường. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp yên tâm đầu tư dài hạn. Thực hiện Nghị quyết 68-NQ/TW, ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, hiệp hội cần được giao nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể như nhiều nước, thì mới tổ chức phục hồi lại được ngành trà.

Toàn tỉnh có hơn 160 doanh nghiệp chế biến trà, nhưng chỉ 72 đơn vị tham gia Chi hội và chỉ 14 trong số đó là thành viên của Hiệp hội Chè Việt Nam - phản ánh sự liên kết còn lỏng lẻo, thiếu sức bật tập thể. Tiến sĩ Phạm S. nhấn mạnh, Trà Lâm Đồng cần một chiến lược bản sắc rõ ràng, thay vì hòa lẫn trong các dòng đại trà. Chỉ khi sản phẩm mang theo giá trị văn hóa độc đáo và tinh thần địa phương, khai thác thị trường mới như Halal; từ đó, tạo ra khác biệt trên thị trường toàn cầu.

Để hiện thực hóa điều đó, cần chiến lược phối hợp ba bên: doanh nghiệp - chính quyền - hiệp hội. Vai trò hiệp hội là cầu nối chính sách, điều phối sản phẩm và dẫn dắt đổi mới. Cũng cần giao quyền thực chất cho hiệp hội như tổ chức liên kết vùng nguyên liệu, xây dựng tiêu chuẩn, xúc tiến thương mại - như nhiều quốc gia đã làm thành công.

Chỉ khi đó, ngành trà Lâm Đồng mới có thể thực sự phục hưng - không chỉ bằng ký ức vàng son, mà bằng sức cạnh tranh thực chất của một ngành hàng hiện đại, bản sắc và bền vững./.

Có thể bạn quan tâm

Lúa tẻ nương Hà Giang - Mùa vàng bội thu

Lúa tẻ nương Hà Giang - Mùa vàng bội thu

Được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay Bộ Nông nghiệp và Môi trường) công nhận lưu hành đặc cách từ gần ba năm trước, lúa tẻ nương Hà Giang nhanh chóng lan rộng trên thị trường nhờ những ưu thế vượt trội. Năm nay, lúa tẻ nương Hà Giang lại được mùa, được giá. Với chi phí sản xuất thấp nhưng hiệu quả vượt trội, lúa tẻ nương mang lại cho người nông dân năng suất cao và thu nhập ổn định.

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Chuối xiêm là cây trồng chủ lực tại khu vực vùng đệm Vườn quốc gia U Minh Thượng hơn 20 năm qua. Nơi đây được mệnh danh là vương quốc chuối của tỉnh Kiên Giang. Từ đầu năm 2025 đến nay, giá chuối xiêm ở huyện U Minh Thượng duy trì ở mức cao mang lại niềm vui và nguồn thu nhập khá cho người dân.

Bản đồ nguồn nước Điện Biên - vũ khí chống 'giặc' lửa

Bản đồ nguồn nước Điện Biên - vũ khí chống 'giặc' lửa

Với sáng kiến xây dựng “Bản đồ nguồn nước Điện Biên”, Thượng úy Nguyễn Doãn Đạt (Phòng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ - Công an tỉnh Điện Biên) đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác chữa cháy, đồng thời khơi dậy tinh thần sáng tạo, đổi mới trong ứng dụng công nghệ số của lực lượng Công an nhân dân.

Ứng dụng công nghệ đưa sản phẩm làng nghề vươn xa

Ứng dụng công nghệ đưa sản phẩm làng nghề vươn xa

Với sự phát triển của khoa học công nghệ, thời gian qua, các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã nhanh chóng nắm bắt cơ hội, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ trong sản xuất, quảng bá thương hiệu. Từ đó, góp phần tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, từng bước đưa các sản phẩm làng nghề vươn dài ra thị trường thế giới.

Yên Bái hình thành nhiều vùng nguyên liệu tập trung của 10 cây trồng chủ lực

Yên Bái hình thành nhiều vùng nguyên liệu tập trung của 10 cây trồng chủ lực

Yên Bái đang trở thành điểm đến an toàn, hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nhờ thực thi đồng bộ các giải pháp phát triển bền vững dựa trên cơ sở tận dụng tối đa tiềm năng, lợi thế. Điều đó đã tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, thông thoáng, hiệu quả cùng sự đồng hành tích cực của chính quyền các cấp đối với các nhà đầu tư.

Độc đáo những ngôi nhà đá ong

Độc đáo những ngôi nhà đá ong

Ẩn mình trong những làng quê yên bình của Quảng Ngãi, có những ngôi nhà được xây dựng từ đá ong độc đáo tại xã Bình Hải, huyện Bình Sơn. Trải qua bao thăng trầm, những nếp nhà này không chỉ mang đậm dấu ấn kiến trúc xưa mà còn chứa đựng cả những câu chuyện về đời sống, văn hóa của người dân nơi đây. Tuy nhiên, trước sự thay đổi của nhịp sống hiện đại, số lượng những ngôi nhà đá ong nguyên vẹn ngày càng ít.

Điểm tựa tin cậy của đồng bào các dân tộc ở vùng biên Đắk Lắk

Điểm tựa tin cậy của đồng bào các dân tộc ở vùng biên Đắk Lắk

Năm 2025 đánh dấu chặng đường 50 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Bộ đội Biên phòng tỉnh Đắk Lắk (23/5/1975 - 23/5/2025). Trải qua nửa thế kỷ, Bộ đội Biên phòng không chỉ khẳng định vai trò là lực lượng nòng cốt, chuyên trách trong bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia mà còn là điểm tựa tin cậy của nhân dân các dân tộc anh em ở vùng biên Đắk Lắk.

Diện mạo mới tươi đẹp vùng đồng bào Khmer Nam Bộ

Diện mạo mới tươi đẹp vùng đồng bào Khmer Nam Bộ

Trong dòng chảy của thời gian, đồng bào Khmer Nam Bộ luôn là một phần không thể tách rời của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chủ trương “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng tiến bộ”, Đảng và Nhà nước ta ban hành các chính sách đầu tư, ưu tiên bố trí nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nhờ đó, sau 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, vùng đồng bào Khmer Nam Bộ đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ, khoác lên mình diện mạo mới tươi đẹp và đầy sức sống...

Trải nghiệm thiên nhiên trên "vùng đất của nắng và gió"

Trải nghiệm thiên nhiên trên "vùng đất của nắng và gió"

Hiện nay, xu hướng "check-in" trải nghiệm tại các địa điểm đến đã trở thành một phần không thể thiếu trong mỗi chuyến đi. Tại Ninh Thuận, trào lưu này không chỉ giúp du khách lưu giữ những khoảnh khắc đáng nhớ mà còn góp phần quảng bá hình ảnh du lịch địa phương hiệu quả.

Vui Tết rừng với đồng bào Mông Nà Hẩu

Vui Tết rừng với đồng bào Mông Nà Hẩu

Đến hẹn lại lên, cứ vào ngày cuối cùng của tháng Giêng hằng năm, đồng bào dân tộc Mông ở xã Nà Hẩu, huyện Văn Yên (Yên Bái) nô nức hội tụ tại các điểm trung tâm bản để tổ chức Lễ Cúng rừng hay còn gọi Tết rừng.

Du lịch "ngất ngây" mùa hoa mận Mộc Châu

Du lịch "ngất ngây" mùa hoa mận Mộc Châu

Mùa hoa mận Mộc Châu (Sơn La) năm nay đẹp hơn mọi năm nhờ thời tiết thuận lợi, hoa tại nhiều vườn đồng loại bung đều nên càng thu hút nhiều du khách từ mọi miền Tổ quốc. Tuy nhiên, khi khách đổ dồn đi du xuân ngắm hoa, đã xuất hiện nhiều phản hồi quá tải về phòng nghỉ, các dịch vụ ăn uống, vui chơi và tắc đường.

Về Bắc Ninh thưởng thức canh hát Quan họ đầu Xuân

Về Bắc Ninh thưởng thức canh hát Quan họ đầu Xuân

Những ngày đầu Xuân, ở Bắc Ninh rộn ràng lễ hội. Đặc biệt, người yêu Quan họ có thể cảm nhận đầy đủ các hình thức diễn xướng của loại hình nghệ thuật này trong các lễ hội như hát hội, hát thuyền, hát cửa đình, cửa chùa. Đặc biệt, du khách có thể tìm đến không gian riêng để nghe các canh Quan họ, thưởng thức những nét độc đáo và tinh túy nhất.

Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa

Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa

Ngày 5/2 (tức mùng 8 Tết Ất Tỵ), tại xã Phong Phú, huyện Tân Lạc (Hòa Bình) diễn ra Lễ hội Khai hạ dân tộc Mường năm 2025. Đây là lễ hội dân gian truyền thống lớn nhất của dân tộc Mường, đồng thời trở thành nét sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng không thể thiếu trong dịp Tết đến, Xuân về của người Mường ở Hòa Bình. Lễ hội thu hút hàng nghìn người dân, du khách trong và ngoài tỉnh đến tham gia.

Đoàn kết - Điểm tựa vững chắc để Việt Nam vươn mình phát triển

Đoàn kết - Điểm tựa vững chắc để Việt Nam vươn mình phát triển

Làng Nủ, xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai sau hơn 3 tháng kể từ thảm họa bão Yagi (bão số 3) đã được khoác chiếc áo mới. 40 căn nhà tái định cư kiến trúc nhà sàn dân tộc Tày với diện tích 96m2/căn còn thơm mùi sơn đã được trao cho những hộ dân đã bị mất nhà cửa sau thảm hoạ sạt lở tại đây 3 tháng trước. Thảm họa tại Làng Nủ đã làm 52 người chết, 14 người mất tích, 15 người bị thương, sập đổ 35 căn nhà cùng nhiều tài sản lớn. Quá trình tái thiết, đưa người dân trở lại cuộc sống bình thường ở Làng Nủ sau bão số 3 như một biểu tượng cho tinh thần đoàn kết cùng vượt qua khó khăn của dân tộc ta trước thiên tai khốc liệt.

Tết sớm trên những bản làng thoát nghèo ở vùng cao A Lưới

Tết sớm trên những bản làng thoát nghèo ở vùng cao A Lưới

Kết thúc mùa màng bội thu cũng là lúc đồng bào dân tộc huyện miền núi A Lưới (tỉnh Thừa Thiên - Huế) dựng cây nêu, nô nức đón chào ngày hội lớn - lễ hội ADa Koonh. Lễ hội năm nay trở nên đặc biệt hơn khi A Lưới chính thức thoát khỏi danh sách 74 huyện nghèo quốc gia giai đoạn 2022 - 2025. Không khí lễ hội, hân hoan đón Tết tràn ngập mọi nẻo đường và bản làng.

Để kịp thời phòng ngừa, phát hiện và xử lý tội phạm, cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Lai Hòa thường xuyên phối hợp với lực lượng công an, dân quân tự vệ tuần tra kiểm soát tại khu vực biên giới biển ở thị xã Vĩnh Châu (Sóc Trăng).

Sóc Trăng xây dựng “thế trận lòng dân” trong bảo vệ biên giới

Những năm qua, Đảng ủy, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Sóc Trăng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy, chỉ huy các cấp thực hiện tốt phương châm “3 bám, 4 cùng" (bám đơn vị, bám địa bàn, bám chủ trương chính sách; cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc) để thực sự gần dân, hiểu dân, chăm lo cho dân, cùng chung tay gìn giữ biên giới biển…

Bảo tồn và phát huy nghề làm đường thốt nốt của đồng bào Khmer An Giang

Bảo tồn và phát huy nghề làm đường thốt nốt của đồng bào Khmer An Giang

Đối với đồng bào Khmer vùng Bảy núi An Giang, cây thốt nốt từ lâu đã trở nên thân quen, gắn liền với cuộc sống hằng ngày. Những sản phẩm từ cây thốt nốt được nhân dân tận dụng để phát triển kinh tế, hình thành nên nhiều đặc sản trứ danh. Trong đó, nghề làm đường thốt nốt không chỉ giúp người dân có thu nhập ổn định mà còn được gìn giữ qua nhiều thế hệ và trở thành Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

"Mái ấm cho đồng bào” trong kỷ nguyên vươn mình

"Mái ấm cho đồng bào” trong kỷ nguyên vươn mình

Xóa nhà tạm không chỉ thể hiện tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, mà đây là việc làm thiết thực nhằm hoàn thành công cuộc giảm nghèo bền vững, hướng tới một tương lai không ai bị bỏ lại phía sau trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Hang Kia, Pà Cò - điểm đến đặc trưng văn hóa dân tộc Mông

Hang Kia, Pà Cò - điểm đến đặc trưng văn hóa dân tộc Mông

Hang Kia và Pà Cò là hai xã vùng cao của huyện Mai Châu (Hòa Bình) nằm trong Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia - Pà Cò, nơi có đến hơn 90% là người dân tộc Mông. Với cảnh quan nguyên sơ, núi đồi hùng vĩ cùng những giá trị văn hóa đậm đà bản sắc riêng có, nhiều đời nay, đồng bào Mông ý thức được việc gìn giữ, đồng thời phát huy được tiềm năng, lợi thế, tạo dựng vùng "đất hứa" vươn mình trở thành điểm đến hấp dẫn du khách trong nước và quốc tế.

Đồng bào Khmer tìm hiểu về lịch sử hình thành cột mốc biên giới 275 giữa Việt Nam và Campuchia tại khu vực cửa khẩu Quốc tế Tịnh Biên, thị xã Tịnh Biên (An Giang). Ảnh: An Hiếu

An dân giữ đất biên cương

Với khẩu hiệu “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt”, cán bộ, chiến sĩ bộ đội biên phòng An Giang luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, bám sát địa bàn, phát huy hiệu quả sức mạnh đoàn kết toàn dân, bảo vệ vững chắc an ninh biên giới Tây Nam.

Tượng đài "Con tàu tập kết ra Bắc" cùng phù điêu lớn hình cánh cung phía sau là điểm nhấn tại Khu lưu niệm đồng bào miền Nam tập kết ra Bắc. Ảnh: Việt Hoàng-TTXVN

70 năm tập kết ra Bắc: Dành những gì tốt nhất cho đồng bào miền Nam

Cách đây 70 năm, Hiệp định Geneva về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam đã được ký kết, mở ra một trang mới trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Ðảng đã có quyết định mang tầm chiến lược là đưa con em cán bộ, chiến sỹ, đồng bào miền Nam tập kết ra Bắc để tiếp tục học tập, tạo nguồn cán bộ lâu dài cho sự nghiệp cách mạng; đồng thời góp phần cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chuẩn bị lực lượng cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Về miền văn hóa Mường

Về miền văn hóa Mường

Hòa Bình là vùng đất có nhiều dân tộc cùng chung sống, trong đó chủ yếu là dân tộc Mường, chiếm hơn 63% dân số. Nơi đây nổi tiếng với bốn vùng Mường cổ “Bi, Vang, Thàng, Động” cùng sự hiện diện của “Văn hóa Hòa Bình” tồn tại trên 10.000 năm. Theo dòng chảy thời gian, dân tộc Mường ở Hòa Bình đã sáng tạo và gìn giữ được một nền văn hóa phong phú và đa dạng...

Đồng bào Chăm Islam An Giang: Gắn kết giữa đạo và đời, tôn giáo và dân tộc

Đồng bào Chăm Islam An Giang: Gắn kết giữa đạo và đời, tôn giáo và dân tộc

Đồng bào dân tộc Chăm ở An Giang theo Hồi giáo (Islam) hiện có trên 11.000 người, chiếm khoảng 0,6% tổng số dân trên địa bàn tỉnh. Không chỉ thực hiện tốt giáo lý tôn giáo, đồng bào Chăm nơi đây còn nêu cao tinh thần trách nhiệm, nỗ lực phát triển kinh tế, gìn giữ văn hóa truyền thống, hướng tới một cuộc sống ngày càng văn minh, giàu đẹp…

Lực lượng quân đội, công an triển khai tìm kiếm các nạn nhân mất tích do sạt lở đất tại thôn Làng Nủ, xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên (Lào Cai). Ảnh: Ngọc Thành

Ấm áp tình người nơi bão lũ

Bão Yagi (bão số 3) và hoàn lưu bão những ngày đầu tháng 9 vừa qua đã gây thiệt hại nặng nề ở nhiều tỉnh, thành phố phía Bắc. Trước sức tàn phá của thiên nhiên, tinh thần “bầu ơi thương lấy bí cùng” của người Việt Nam như được nhân lên gấp bội, lan tỏa nơi bão lũ...

Kinh lá Buông, Di sản văn hóa phi vật thể của người Khmer An Giang

Kinh lá Buông, Di sản văn hóa phi vật thể của người Khmer An Giang

Kinh lá Buông của người Khmer An Giang là một trong những di sản văn hóa độc đáo thể hiện sự khéo léo, tài năng sáng tạo trong trình độ kỹ thuật và tri thức của người Khmer. Tỉnh An Giang đã phê duyệt Đề án bảo tồn và phát huy giá trị Di sản Văn hóa Phi Vật thể Quốc gia “Tri thức và kỹ thuật viết chữ trên lá Buông của người Khmer tỉnh An Giang” và sẽ xây dựng hồ sơ đăng ký công nhận di sản tư liệu tri thức và kỹ thuật viết chữ trên lá buông của người Khmer ở tỉnh An Giang, thuộc chương trình ký ức thế giới khu vực châu Á-Thái Bình Dương của UNESCO.

Sáng ngời sắc áo lính nơi lũ dữ

Sáng ngời sắc áo lính nơi lũ dữ

Những ngày này, trên địa bàn thành phố Hà Nội, lực lượng công an, quân đội đang phối hợp các đơn vị nỗ lực bảo vệ tài sản, an toàn tính mạng cho nhân dân. Việc làm của các lực lượng vũ trang giúp thắm hơn tình quân, dân trong lũ dữ. *Kề vai sát cánh cùng nhân dân