Tại tỉnh Đồng Nai, nhà nông là hộ dân tộc thiểu số đã mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp đang mang lại hiệu quả vượt trội. Với sự hỗ trợ từ các chính sách của Nhà nước và vai trò cầu nối của Hội Nông dân, nhiều nông dân đã mạnh dạn thay đổi tư duy, từ bỏ lối canh tác truyền thống để tiếp cận các mô hình tiên tiến, mở ra hướng đi mới trong phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững.

Anh Lâm Cố người dân tộc Khmer tại ấp Sóc Lớn (xã Lộc Hưng, tỉnh Đồng Nai) chăm sóc vườn sầu riêng được đầu tư áp dụng khoa học kỹ thuật.
Thay đổi phương thức canh tác
Năm 2015, sau nhiều năm gắn bó với cây điều và hồ tiêu, anh Lâm Cố người dân tộc Khmer tại ấp Sóc Lớn (xã Lộc Hưng) bắt đầu trồng thử nghiệm vài chục gốc sầu riêng. Tuy nhiên, do thiếu kinh nghiệm chăm sóc và chưa nắm vững đặc tính của loại cây “khó tính” này nên phần lớn số cây sầu riêng của anh Cố phát triển kém.
Thất bại ban đầu không làm anh Lâm Cố nản lòng. Ngược lại, nó càng thôi thúc anh Cố quyết tâm tìm hiểu kỹ thuật. Đến tháng 5/2016, anh Lâm Cố tiếp tục đầu tư hàng chục triệu đồng để mua giống, phân bón và lắp đặt hệ thống tưới tự động cho 46 gốc sầu riêng mới. Anh Lâm Cố chia sẻ: Tôi thấy nhiều người ở miền Tây lên học hỏi và trồng xen trong vườn tiêu. Hồi trước, tôi không biết cách làm, một tuần chỉ tưới một lần. Giờ đã nắm vững kỹ thuật, tôi biết phải tưới 1 đến 2 ngày một lần mới hiệu quả.
Khi đã có kỹ thuật trong tay, anh Lâm Cố chăm sóc vườn sầu riêng tốt hơn. Anh Cố thường xuyên thăm vườn để kịp thời phát hiện sâu bệnh, đồng thời cắt tỉa cành nhánh không cần thiết để cây thông thoáng. Việc bón phân định kỳ cũng giúp cây duy trì sức khỏe, nhờ vậy năng suất tăng lên từng năm. Với nguồn thu từ cây sầu riêng, đến năm 2021, anh Lâm Cố tiếp tục đầu tư hàng trăm triệu đồng để trồng thêm 350 gốc sầu riêng.
“Năm đầu tiên, 46 gốc sầu riêng thu được khoảng 1 tấn, năm sau được 2 tấn, rồi lên 3 tấn và năm nay thu được hơn 6 tấn. Nguồn thu tăng lên đều đặn, cộng với thu nhập từ cây cao su, tôi đã mạnh dạn đầu tư thêm vườn mới 350 gốc đã được 4 năm tuổi và dự kiến năm tới sẽ làm hoa, làm trái”, anh Cố chia sẻ thêm.
Ngoài ra, sau khi thu hoạch, anh Lâm Cố đặc biệt chú trọng công tác chăm sóc để cây sớm hồi phục cây sử dụng các loại thuốc trị nấm bệnh để rửa vườn. Tiếp đó, sau khi cắt tỉa cành, bón phân để sát trùng giúp cây phục hồi chuẩn bị mùa vụ mới.

Áp dụng công nghệ và kỹ thuật hiện đại giúp gia đình anh Lâm Poch ở ấp Sóc Lớn, xã Lộc Hưng, tỉnh Đồng Nai, sản xuất hiệu quả.
Cũng tại xã Lộc Hưng, việc áp dụng công nghệ và kỹ thuật hiện đại đã giúp anh Lâm Poch ở ấp Sóc Lớn sản xuất hiệu quả hơn hẳn. Năm 2020, anh Poch đã bỏ ra hơn 50 triệu đồng để lắp đặt hệ thống tưới tự động cho 1,3 ha vườn. Nhờ vậy, việc tưới 200 gốc bưởi da xanh và 150 gốc sầu riêng 5 năm tuổi trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Anh Lâm Poch chia sẻ: Từ khi có hệ thống tưới tự động, tôi thấy làm việc tiện lắm. Chỉ cần dùng điều khiển từ xa là bật, tắt máy bơm được, thậm chí ngồi trong chòi cũng tưới cây được, khỏe hơn trước nhiều so với trước đây.
Hệ thống tưới tự động đã giúp anh Lâm Poch tiết kiệm được kha khá thời gian. Anh Poch tận dụng thời gian rảnh đó để chăm sóc vườn bưởi và sầu riêng kỹ lưỡng hơn. Ngoài ra, anh Lâm Poch còn rất khéo léo khi chọn mô hình kinh tế đa canh. Ngoài bưởi và sầu riêng, gia đình anh còn có 700 gốc cao su đang cho thu hoạch. Việc trồng nhiều loại cây như vậy giúp anh có nguồn thu đều đặn quanh năm.
Truyền cảm hứng nông nghiệp công nghệ cao
Việc áp dụng các mô hình mới với tiến bộ khoa học kỹ thuật đang mang đến một làn gió mới trong vùng đồng bào thiểu số. Những hộ thành công với mô hình nông nghiệp công nghệ cao không chỉ làm giàu cho gia đình mà còn truyền cảm hứng cho những hộ có niềm “đam mê” phát triển kinh tế, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Một tấm gương điển hình của đồng bào dân tộc thiểu số Khmer là anh Lâm Nhanh tại xã Lộc Hưng, người đã thành công với mô hình trồng dưa lưới từ năm 2020. Theo anh Nhanh, ban đầu, việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, sau khi học hỏi từ các mô hình thành công, tìm tòi qua tài liệu, internet và tham gia các lớp tập huấn, mô hình đã mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt. Từ năm 2021, anh đã có thu nhập ổn định, trung bình 200 triệu đồng mỗi năm.
Anh Lâm Nhanh chia sẻ: "Trước đây, gia đình tôi chủ yếu sản xuất theo lối truyền thống nên hiệu quả kinh tế không cao. Từ khi tiếp cận thực hiện mô hình dưa lưới, việc áp dụng khoa học kỹ thuật đã mang lại năng suất và hiệu quả ổn định".
Thời gian qua, anh Lâm Nhanh không chỉ thành công với mô hình của mình mà còn là người truyền cảm hứng tại địa phương. Anh đã hướng dẫn những người có đam mê trồng dưa lưới trên địa bàn sóc, ấp để truyền đạt kinh nghiệm, kỹ thuật trồng, chăm sóc… cho hộ gia đình đồng bào thiểu số.

Người dân xã Lộc Hưng tỉa cành tạo tán vườn cây sầu riêng.
Theo bà Thị Lộc, Chủ tịch Hội Nông dân xã Lộc Hưng, những năm gần đây việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, đặc biệt đối với đồng bào dân tộc thiểu số tại địa phương đã mang lại những kết quả đáng kể. Trước đây, người dân chưa được tiếp cận với các phương pháp canh tác hiện đại nên năng suất thấp. Ví dụ như trong sản xuất lúa, mỗi năm 1 sào chỉ thu hoạch được khoảng 2-2,5 tạ. Tuy nhiên, người dân đã áp dụng khoa học kỹ thuật và hưởng lợi từ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước như: xây dựng kênh thủy lợi, hỗ trợ cây giống, tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao cây trồng… nên năng suất đã tăng vượt trội.
Hội Nông dân xã Lộc Hưng cũng đã phối hợp với các hộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi để hướng dẫn bà con trong địa bàn. Do vậy, số lượng đồng bào dân tộc thiếu số được tiếp cận với các kỹ thuật mới đã tăng lên và đã đạt được những kết quả khả quan. Cụ thể, các hộ sản xuất kinh doanh giỏi đã trực tiếp hướng dẫn bà con đồng bào thiểu số từng bước biết áp dụng kỹ thuật trồng cây ăn trái (đặc biệt là cây sầu riêng), đồng thời hướng dãn họ chủ động tiếp cận khoa học kỹ thuật tiên tiến, thay thế các phương pháp sản xuất truyền thống nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Chủ tịch Hội nông dân xã Lộc Hưng Thị Lộc cho biết: Hội Nông dân sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học kỹ thuật để tuyên truyền, hướng dẫn người dân áp dùng trong sản xuất nông nghiệp.nhằm cải thiện cuộc sống và nâng cao thu nhập một cách bền vững. Đặc biệt, đối với các hộ đồng bào dân tộc, Hội sẽ tiếp tục đồng hành, hỗ trợ bà con từng bước phát triển canh tác bền vững thông qua việc tổ chức các lớp tập huấn, hướng dẫn tận tình để cây sầu riêng và các cây trồng khác thực sự mang lại hiệu quả kinh tế cao./.
Tên tự gọi: Người Khmer.
Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.
Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.
Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.
Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).
Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Ở: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.
Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.
Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.
Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.
Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.
Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.
Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.
Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.
Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).
Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Theo cema.gov.vn
