Tượng giữ làng của người Cơ Tu

Tượng giữ làng của người Cơ Tu
Theo truyền thống, người Cơ Tu sống quây quần thành từng làng nhỏ. Làng của người Cơ Tu có chừng 30 - 40 nóc nhà, nhà này cách nhà kia 5 - 7 m, được xếp theo hình tròn, hình bầu dục, với chu vi chừng 1 km. Mỗi làng của người Cơ Tu có một ranh giới nhất định, tách biệt với các làng khác. Ranh giới giữa các làng thường là một khu rừng, cây cổ thụ, hay con suối lớn.

Làng thường hội tụ nhiều yếu tố như: có đất sản xuất, đất ở của từng hộ gia đình, đất làm kho thóc, máng nước, đất làm nghĩa địa, đất rừng chung để cả làng săn bắn, chăn nuôi gia súc, gia cầm, thu hái lâm sản, những khúc sông, con suối chảy qua làng. Mỗi làng đều có công trình công cộng là nhà Gươl (ngôi nhà làng truyền thống). Trong làng, có nhiều dòng họ cùng sinh sống, mỗi dòng họ có một sự tích, truyền thuyết và có tập quán kiêng cữ riêng liên quan đến dòng họ mình. Sự tích, câu chuyện cổ, truyền thuyết ấy có thể là một sự kiện đặc biệt trong đời sống tâm linh, tín ngưỡng, đời sống của họ.
 
Tượng giữ làng của người Cơ Tu.
Tượng giữ làng của người Cơ Tu.

Xưa, mỗi làng Cơ Tu đều có một tên gọi riêng, có thể là tên gọi của người đứng ra lập làng, hoặc có thể đặt tên theo đặc điểm tự nhiên trong vùng. Quan hệ giữa các làng là bình đẳng với nhau, nhiều làng trong vùng còn kết nghĩa với nhau. Người Cơ Tu coi làng là khu dân cư tập trung phòng thủ kiên cố, rào kín xung quanh, có hào sâu, đặt bẫy, chông để bảo vệ làng trước thú dữ và sự xâm nhập từ bên ngoài. Mỗi làng chỉ có một số cổng ra vào nhất định, cổng chính án ngữ đường đi thường quay ra phía cửa rừng, được bảo vệ cẩn mật, bên cạnh đó còn đặt một tượng gỗ giữ làng. Theo quan niệm của người Cơ Tu, ngoài phòng thủ ra, việc rào làng và đặt tượng giữ làng còn nhằm mục đích ngăn con ma hay người chết xấu vào phá làng, lấy lúa, ngăn con sâu, con mối không phá lúa giống đã tỉa…, nói chung là ngăn cản những thế lực xấu theo tín ngưỡng dân gian của người Cơ Tu.

Theo ông Bh’ling Hạnh (70 tuổi, ở thôn Công Dồn, xã Zuôih, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam), tục rào làng và làm tượng giữ làng của đồng bào Cơ Tu thường được tổ chức vào tháng 10, tháng 11 dương lịch. Tuy nhiên, tùy theo từng làng mà việc rào làng và đặt tượng giữ làng được thực hiện hai hoặc ba năm một lần. Để tổ chức lễ rào làng và làm tượng giữ làng thì già làng sẽ tiến hành chọn ngày và được sự thống nhất của cộng đồng làng. Các thành viên được phân công vào rừng chặt các loại cây như gỗ, lồ ô, mây về làm cổng, làm tượng - công việc này thường dành cho đàn ông. Tượng được làm từ một thân cây rừng mọc rất nhiều ở vùng rừng núi, nơi người Cơ Tu sinh sống định cư, thể hiện trên khúc gỗ là một nhân vật đàn ông có chân, đôi tay liền vào thân. Gương mặt bức tượng này khá dữ, mắt trợn tròn, răng dữ tợn. Đây là tác phẩm nghệ thuật do chính tay người đàn ông Cơ Tu trong làng tạc bằng cái rìu, rựa đi rừng.

Trước khi tiến hành làm lễ rào làng và đặt tượng giữ làng, lễ vật mà người dân chuẩn bị bắt buộc phải có cua, cá và trứng gà luộc chín, tùy từng làng mà có số lượng khác nhau. Phụ nữ thường được phân công ra sông, suối bắt cua, cá và chuẩn bị các món ăn cúng thần linh và để cả làng ăn uống. Nếu trong làng có người lạ hoặc người ở làng khác đến chơi thì dân làng nhất định phải chờ cho khách ra khỏi làng và mọi thành viên trong làng mình tập trung đầy đủ thì mới rào. Bởi, nếu không chờ cho khách về thì khi rào làng xong họ sẽ không được ra khỏi cổng làng. Tất cả lối đi của làng từ đường đi rừng, đường đi rẫy, đường đi sang làng khác đều được làm cổng, xung quanh làng thì được bao bọc bằng dây lạt được chẻ từ cây nứa và treo thòng lọng. Các cổng phụ thì được làm đơn giản, riêng cổng chính thì được làm công phu hơn, được trang trí tượng giữ làng.

Trong lễ rào làng và đặt tượng giữ làng, già làng sẽ đứng tại cổng chính của làng và khấn mời thần linh chứng giám phù hộ cho dân làng được khỏe mạnh, làm ăn được mùa, không để con ma, con quỷ vào phá làng, gây ốm đau, bệnh tật và cái chết cho dân làng. Sau khi rào làng, và đặt tượng giữ làng, mọi thành viên trong làng không được ra ngoài và những người ngoài cũng không được vào làng vì làm vậy có thể mang những điều xấu, điều không may đến cho dân làng. Nếu vi phạm họ sẽ gặp những điều xấu hoặc sẽ bị phạt theo lệ làng.

Từ bao đời nay người Cơ Tu luôn tin vào các đấng siêu nhiên, các vị thần linh để cầu mong sự bảo hộ cho cuộc sống của họ luôn được yên lành, hạnh phúc, mùa màng tươi tốt. Tượng giữ làng dù đơn giản, nguyên liệu dễ tìm, lại được làm thủ công nhưng lại có ý nghĩa đặc biệt đối với mỗi người con của cộng đồng Cơ Tu. Ông Bh’ling Hạnh cho biết thêm, từ xa xưa truyền lại, tượng giữ làng không chỉ là tác phẩm trang trí thẩm mỹ của tổ tiên, ông bà Cơ Tu mà còn có khả năng dò xét, xua đuổi ma quỷ, biết ai trong làng có cái bụng xấu, cái tâm không trong sáng. Những người xấu nhìn vào bức tượng sẽ cảm thấy lo lắng, sợ hãi, cảm giác bất an. Tượng giữ làng được xem như một vị thần bảo vệ làng, là biểu tượng cho sức mạnh của làng, là biểu tượng thiêng liêng vững bền đã ăn sâu vào tiềm thức trong đời sống của bao thế hệ người Cơ Tu.
Theo baodaklak.vn

Có thể bạn quan tâm

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Hằng năm, vào ngày Mão tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân xã Đông Cuông, tỉnh Lào Cai rộn ràng tổ chức Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông. Đây là hoạt động truyền thống nhằm tổng kết một năm lao động, sản xuất, những người con quê hương, du khách bày tỏ lòng tri ân với Mẫu Thượng Ngàn, các đấng siêu nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Sáng 23/10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên tổ chức Khai mạc Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh, năm 2025. Sự kiện là hoạt động thiết thực nhằm chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025 - 2030; hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/1945 - 23/11/2025) và 80 năm Ngày Thể thao Việt Nam (27/3/1946 - 27/3/2026).

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Giữa nhịp sống hiện đại đang lan tỏa tới từng bản làng vùng cao, người Dao Tiền ở Bản Sưng, xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình cũ, nay thuộc tỉnh Phú Thọ) vẫn bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có nghi lễ cưới, một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, tín ngưỡng và đạo lý của cộng đồng.

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Chiều 20/10/2025, khoảnh khắc thiêng liêng và xúc động nhất trước thềm lễ hội Katê chính là khi cộng đồng người Chăm làng Hữu Đức (Phước Hữu, Khánh Hòa) trang trọng đón nhận y trang từ người anh em Raglai. Đây không chỉ là một nghi lễ, mà còn là một minh chứng sống động cho mối giao hảo bền chặt, độc đáo đã được trao truyền qua nhiều thế hệ trên mảnh đất đầy nắng và gió. 

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Những ngày này, từ các tuyến phố trung tâm cho đến tận các thôn bản nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Tuyên Quang đều rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ, băng rôn chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là kỳ Đại hội đầu tiên sau khi hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, là sự kiện chính trị trọng đại, thể hiện ý chí, niềm tin và khát vọng của gần 1,9 triệu đồng bào các dân tộc trong tỉnh cùng hướng tới tương lai.

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer tỉnh Cà Mau hiện có trên 32 nghìn hộ với gần 140 nghìn nhân khẩu, chiếm gần 6,5% dân số toàn tỉnh. Những ngày này, tại các địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, không khí chào đón lễ Sene Dolta, một trong những lễ hội truyền thống quan trọng và mang đậm bản sắc văn hóa của người Khmer, diễn ra rộn ràng. 

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Tại miền đất Quảng Ngãi, các làn điệu dân ca H’rê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc. Để những giai điệu này không bị lãng quên, vai trò của người phụ nữ dân tộc H’rê vô cùng to lớn. Họ là những nghệ nhân thầm lặng, miệt mài gìn giữ và lan tỏa tình yêu với âm nhạc truyền thống, biến những lời ca thành sợi dây kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ và hiện tại.

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Trong không gian bảng lảng khói sương của núi rừng, của bản làng, bên những ngôi nhà sàn gỗ, những mế (phụ nữ lớn tuổi), ẻm (cô gái trẻ) trong trang phục áo pắn (áo ngắn), váy dài quấn kết hợp với cạp váy dệt hoa văn tinh xảo, đeo tênh (thắt lưng), xà tích và vấn khăn trắng trên đầu. Tiếng chiêng mường vang vọng cùng lời mo rì rầm đưa con người về lại với cội nguồn, về với những giá trị cốt lõi từ ngàn xưa… Đó là văn hóa Mường, là di sản, kho báu tinh thần của cộng đồng người Mường Hòa Bình cũ, nay là tỉnh Phú Thọ.

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu là một nghi thức quan trọng trong lễ cưới của đồng bào Dao đỏ ở bản Nậm Sáng, xã Mường Than, tỉnh Lai Châu. Trải qua thời gian cùng những thăng trầm của lịch sử, đến nay, người Dao đỏ nơi đây vẫn giữ được nghi thức truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Cô dâu mặc trang phục truyền thống rực rỡ sắc màu. Đoàn đón dâu nhà trai phải chuẩn bị một đội kèn trống gồm 4 người, đây là phần không thể thiếu trong nghi lễ đón dâu. Tiếng kèn, trống, chiêng, chũm chọe để chào mừng và thông báo cho tổ tiên, đất trời về sự kiện trọng đại này.

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram tại ấp Cù Lao, xã Hưng Hội (Cà Mau) như một "bảo tàng mỹ thuật" thể hiện tài năng của các nghệ nhân Khmer. Ngôi chùa cũng là một trong những điểm đến văn hóa vô cùng độc đáo tại Cà Mau.

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Bắc Ninh là địa phương sở hữu di sản Thực hành Then được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong dòng chảy văn hóa xứ Kinh Bắc, làn điệu Then vang lên như tiếng gọi của núi rừng, vừa mộc mạc vừa tha thiết. Tại miền đất giàu truyền thống văn hiến này, Then được cộng đồng đón nhận, trân trọng và đưa vào đời sống như một nét đẹp văn hóa; góp phần làm phong phú thêm bức tranh đa sắc màu của vùng đất này.

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Sau khi hợp nhất, không gian phát triển du lịch của tỉnh Đắk Lắk được mở rộng, tạo cơ hội cho các đơn vị, doanh nghiệp du lịch, lữ hành, lưu trú kết nối tiềm năng, lợi thế ở khu vực Đông - Tây. Du khách được trải nghiệm nhiều cung bậc cảm xúc của biển xanh, cát trắng, nắng vàng và đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ cùng những bản sắc văn hóa đặc trưng của đồng bào miền núi.