Vai trò của người làm mối trong hôn nhân người Mường xưa

Vai trò của người làm mối trong hôn nhân người Mường xưa
Tiêu chuẩn làm người làm mối

Người làm mối không phân biệt là đàn ông hoặc đàn bà, song người Mường thường thích nhờ những người có tuổi, có vai vế trong xóm, mường để làm việc này. Bởi đây là cơ sở để gia đình nhà trai hiểu rõ gia cảnh, thân thế và tính tình của người được chọn làm mối.
Trong hôn nhân của người Mường xưa, chỉ con trai mới có quyền được tìm người làm mối.
Trong hôn nhân của người Mường xưa, chỉ con trai mới có quyền được tìm người làm mối.

Người được chọn làm mối phải hội tụ đầy đủ các điều kiện: Ngoại hình bình thường, không bị dị tật; phải am hiểu phong tục, tập quán, khéo ăn nói, có tài ứng đáp và thuyết phục người khác, có uy tín và được nhiều người kính nể; gia đình phải hòa thuận, hạnh phúc, đông con nhiều cháu, có đủ bề trai gái; phải còn đầy đủ cả vợ lẫn chồng, không được góa bụa. Những người cổ cao ba, bốn ngấn cũng không được chọn để làm mối, bởi theo quan niệm những người này có căn cao, số nặng nếu đi làm mai mối sẽ không thành công hoặc khiến đôi vợ chồng trẻ sau này sống không hạnh phúc. Với những người đã từng làm mối nếu có trường hợp bỏ nhau thì sẽ không bao giờ được nhờ làm mối nữa… Việc đặt ra những tiêu chuẩn chặt chẽ như vậy khi chọn người làm mối là thể hiện mong muốn, khát khao cho cuộc sống hôn nhân của con cháu được tốt đẹp.

Công việc do người làm mối đảm nhận

Người làm mối đóng một vai trò rất quan trọng và đảm nhận những công việc chính giúp nhà trai trong suốt quá trình đi hỏi vợ. Trong hôn nhân của người Mường, chỉ gia đình nhà trai mới có quyền tìm chọn người làm mối và giao trọng trách se duyên để trai gái tiến tới hôn nhân, thành vợ chồng. Người làm mối được coi là đại diện của nhà trai, thay mặt bố mẹ chàng trai đến tiếp kiến, bàn bạc và thống nhất cách thức tiến hành hôn lễ. Mọi việc từ lúc bắt đầu đi thăm dò, ướm hỏi, vận động bên nhà gái cho đến hôn lễ, mọi việc nhà trai, nhà gái đều phó thác và trao đổi với nhau thông qua người làm mối. Sự thành bại đều dựa vào khả năng ăn nói và thương thuyết của người làm mối. Vì thế, nếu không có người làm mối đám cưới sẽ không được diễn ra.
Người làm mối có vai trò không nhỏ trong hôn nhân người Mường.
Người làm mối có vai trò không nhỏ trong hôn nhân người Mường.

Trong xã hội Mường xưa kia, người làm mối rất quan trọng trong hôn nhân, nhất là ở tầng lớp Lang Đạo, quý tộc. Họ cho rằng, hôn nhân là cơ sở, là công cụ và phương tiện để mở rộng phạm vi ảnh hưởng, thôn tính đất đai, là khối liên minh để củng cố, mở mang quyền lực và lợi ích cho mình. Với tầng lớp dân thường, hôn nhân chủ yếu là để con cái có vợ, có chồng, sinh con đẻ cái, có thêm nguồn nhân lực, sức lao động cho gia đình và sau này cha mẹ có chỗ cậy nhờ…

Đối với những gia đình sống cùng mường hoặc các mường lân cận, công việc của người làm mối tương đối thuận lợi, song với những gia đình ở xa nhau, hai bên gia đình chưa biết mặt hoặc ít tiếp xúc với nhau thì vai trò của người làm mối lại càng nặng nề. Việc đi hỏi vợ không đơn thuần là chỉ hỏi một cô gái về làm vợ một chàng trai, làm dâu một gia đình mà người làm mối phải thuyết phục bố mẹ, anh chị em và thậm chí cả dòng tộc bên nhà gái. Nếu người làm mối tạo được sự tin cậy, khéo ăn nói và có tài thuyết phục, có uy tín và có chức vị thì sẽ nhanh chóng được nhà gái nể phục, tin tưởng và chấp thuận. Khi bố mẹ cô gái đã thuận thì mọi việc coi như đã thành công. Lúc này bố mẹ cô gái chỉ tiếp xúc và chuyển lời của trưởng họ nhà gái đến bố mẹ chàng trai thông qua người làm mối.

Công việc của người làm mối bắt đầu từ khi nhà trai nhờ đi ướm hỏi, phải qua nhiều bước mới đi đến đám cưới, nhiều khi kéo dài 2 - 3 năm sau nếu đôi bên gia đình chưa đủ điều kiện tổ chức lễ cưới.

Nhờ vai trò của người làm mối mà trong hôn nhân xưa kia ít có sự đổ vỡ, rạn nứt. Người làm mối đóng vai trò xuyên suốt các nghi lễ, tạo nên sự tôn trọng, sự thông cảm, đi đến quý mến nhau của hai bên gia đình, đôi nam nữ, từ đó tạo cho cuộc sống của hai vợ chồng có trách nhiệm với nhau và với hai bên gia đình. Đây được coi là sự đóng góp to lớn của người làm mối đối với cuộc sống hôn nhân của đôi bạn trẻ.
Bản làng Mường, Thung Nai,Hòa Bình.
Bản làng Mường, Thung Nai,Hòa Bình.
Trả công cho người làm mối

Thông thường, sau khi công việc hoàn thành, người làm mối được cả hai bên gia đình cảm ơn theo phong tục và cũng có quy định cụ thể.
Để cảm ơn công lao của người làm mối, trước khi đưa dâu về nhà chồng, nhà gái dọn 2 mâm cơm gồm có thịt, rượu, cơm nếp, trong đó có thêm bá loọi (xương bả lợn đã được luộc chín còn có thịt bám xung quanh).... được bày trên lá chuối và được đặt ở dưới cửa sổ bên gian buồng ngoài nhà sàn để tặng cho người làm mối mang về nhà.

Về phía bên nhà trai, khi đoàn đưa dâu về đến nhà trai, cô dâu đã vào gian buồng, cũng là lúc nhà trai dọn mâm cảm tạ người làm mối. Song có khác là trong mâm phải có thêm phần thịt sống, miếng thịt lợn ở phần vai lợn, chân giò khoảng 5 - 7 kg. Tuy nhiên, một vài nơi người ta lại quy định gia đình mổ bao nhiêu lợn thì phải biếu người làm mối từng ấy khoanh cổ lợn. Có nơi gia đình nhà trai còn phải tặng thêm người làm mối một con gà trống và hai cái bánh chưng. Trong lúc người làm mối ngồi cùng ăn với mọi người, gia đình nhà trai cử người đem số đồ lễ của cả hai gia đình mang đến tận nhà người làm mối. Ngoài những thứ đó ra, cả hai bên gia đình nhà trai và nhà gái còn phải cám ơn người làm mối lễ vật mang ý nghĩa tinh thần, có giá trị sử dụng lâu dài như gối tựa, gối nằm, chăn, màn...

Sau lễ cưới, theo phong tục, việc trả ơn được tiến hành đều đặn cho đến khi người làm mối chết hoặc khi hai vợ chồng “đũa không đủ đôi”. Khi người làm mối chết, đôi vợ chồng phải có tấm “áo chùng” bằng vải đỏ mang đến phúng viếng, giúp đỡ gia chủ chuẩn bị tang lễ như con cháu trong gia đình. Khi bố hoặc mẹ vợ là người chết cuối cùng, hai vợ chồng phải có 1 con lợn hoặc 1 con bò mang đến nhà ngoại mổ thịt dâng cúng. Khi thầy mo cúng, đôi vợ chồng phải bỏ một ít tiền ra chuộc lại một vai thịt bò hoặc lợn đem về nhà luộc chín, gói thành 3 gói, số còn lại bày mâm mời người làm mối ăn và biếu 3 gói thịt đó. Nếu người làm mối không còn sống thì con cháu người làm mối đến ăn và nhận gói thịt, đây được coi là thủ tục cuối cùng trong việc trả ơn.
Theo Langvietonline.vn

Có thể bạn quan tâm

Bảo tồn không gian văn hóa của người Xơ Đăng

Bảo tồn không gian văn hóa của người Xơ Đăng

Trong hai ngày 11 và 12/12, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi tổ chức bàn giao mô hình bảo tồn di sản văn hóa truyền thống của dân tộc Xơ Đăng (nhóm Tơ Đ’ră) tại xã Ngọc Réo và dân tộc Xơ Đăng (nhóm Mơ Nâm) tại xã Kon Plông.

Sắc màu hội tụ và lan tỏa bản sắc 49 dân tộc tỉnh Lâm Đồng

Sắc màu hội tụ và lan tỏa bản sắc 49 dân tộc tỉnh Lâm Đồng

Chiều 12/12, tại Nhà truyền thống tổ dân phố N’Jriêng (phường Đông Gia Nghĩa), Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lâm Đồng tổ chức lễ bế mạc Liên hoan các câu lạc bộ cồng chiêng tỉnh lần thứ nhất, năm 2025 với chủ đề “Sắc màu hội tụ và lan tỏa”.

Độc đáo lễ mừng cơm mới của đồng bào Thái ở Mai Châu

Độc đáo lễ mừng cơm mới của đồng bào Thái ở Mai Châu

Trong không gian nhà sàn trầm ấm thoảng hương lúa mới, lễ cúng mừng cơm mới của đồng bào Thái ở Mai Châu, Phú Thọ từ nhiều đời nay vẫn được gìn giữ như một nghi lễ thiêng liêng. Lễ cúng mừng cơm mới là lời tri ân mùa màng, biểu tượng của văn hóa nông nghiệp lúa nước, là sợi dây gắn kết gia đình, dòng họ, cộng đồng người Thái trong hành trình lao động và gìn giữ bản sắc dân tộc.

Bảo tồn, gìn giữ giá trị Lễ mừng lúa mới của đồng bào Giẻ Triêng

Bảo tồn, gìn giữ giá trị Lễ mừng lúa mới của đồng bào Giẻ Triêng

Từ ngày 4 - 6/12/2025, Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp cùng Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tổ chức truyền dạy và phục dựng Lễ mừng lúa mới của dân tộc Giẻ Triêng, nhằm mục tiêu bảo tồn, gìn giữ những giá trị văn hóa của nghi lễ đặc trưng này, trong bối cảnh có nguy cơ bị mai một theo thời gian.

Tiếp tục khơi dòng chảy văn hóa bản địa đặc sắc của người Ê Đê

Tiếp tục khơi dòng chảy văn hóa bản địa đặc sắc của người Ê Đê

Người Ê Đê sinh sống tại huyện Sông Hinh (tỉnh Phú Yên cũ) nay thuộc các xã: Sông Hinh, Đức Bình, Ea Ly, Ea Bá (tỉnh Đắk Lắk) hiện còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống bản địa đặc sắc, độc đáo. Sau khi sáp nhập địa giới hành chính, chính quyền địa phương đã nỗ lực phát huy những giá trị đó trở thành điểm nhấn trong dòng chảy văn hóa địa phương, tạo thêm nhiều việc làm mới tăng thu nhập cho người Ê Đê thông qua các đề án phát triển du lịch cộng đồng.

Âm vang trống đồng trong đời sống người Lô Lô

Âm vang trống đồng trong đời sống người Lô Lô

Khi ánh mặt trời đầu ngày vừa chạm lên những mái trình tường vàng nơi bản Lô Lô Chải, sương vẫn còn quấn quanh triền núi, tiếng trống đồng bỗng ngân lên - trầm, vang, dội vào vách đá rồi lan ra thung sâu như một luồng sinh khí đánh thức cả cao nguyên. Đấy không chỉ là âm thanh mở đầu của lễ hội, mà là nhịp đập của bao thế hệ người Lô Lô, là lời khẳng định rằng giữa đại ngàn đá xám gió ngàn, bản làng này vẫn giữ trọn linh hồn văn hóa tự ngàn xưa.

Khát vọng vươn lên của xã miền núi Phú Thọ

Khát vọng vươn lên của xã miền núi Phú Thọ

Xã Liên Sơn nằm trong nhóm 5 xã có quy mô lớn nhất tỉnh Phú Thọ, sở hữu địa hình đa dạng, nguồn tài nguyên phong phú và nền văn hóa bản địa giàu bản sắc của đồng bào Mường.

Sắc màu văn hoá của đồng bào Chăm

Sắc màu văn hoá của đồng bào Chăm

Không gian văn hóa đền tháp của đồng bào Chăm tỉnh Khánh Hòa là điểm nhấn đặc sắc nằm trong chuỗi các hoạt động của Tuần “Đại đoàn kết các dân tộc - Di sản Văn hóa Việt Nam” (18 - 24/11/2025) đang được giới thiệu tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Sơn Tây, Hà Nội).

Sắc màu dân tộc thiểu số ở Bắc Ninh

Sắc màu dân tộc thiểu số ở Bắc Ninh

Tỉnh Bắc Ninh có trên 39 vạn người đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống (chiếm 11,02% dân số toàn tỉnh) với nhiều thành phần dân tộc, trong đó có 7 thành phần dân tộc thiểu số chủ yếu gồm: Nùng, Tày, Sán Dìu, Hoa, Cao Lan, Sán Chí, Dao (chiếm 97,78% tổng số người dân tộc thiểu số). Mỗi dân tộc có trang phục, tập quán riêng tạo sự khác biệt và đa dạng văn hóa cho vùng đất này.

Quảng bá thương hiệu trà Shan tuyết

Quảng bá thương hiệu trà Shan tuyết

Ngày 5/11, tại Nhà văn hóa Trung tâm, phường An Tường (Tuyên Quang), Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tuyên Quang tổ chức Hội thi sản phẩm trà Shan tuyết và kỹ thuật pha chế trà năm 2025.

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Hằng năm, vào ngày Mão tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân xã Đông Cuông, tỉnh Lào Cai rộn ràng tổ chức Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông. Đây là hoạt động truyền thống nhằm tổng kết một năm lao động, sản xuất, những người con quê hương, du khách bày tỏ lòng tri ân với Mẫu Thượng Ngàn, các đấng siêu nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Sáng 23/10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên tổ chức Khai mạc Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh, năm 2025. Sự kiện là hoạt động thiết thực nhằm chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025 - 2030; hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/1945 - 23/11/2025) và 80 năm Ngày Thể thao Việt Nam (27/3/1946 - 27/3/2026).

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Giữa nhịp sống hiện đại đang lan tỏa tới từng bản làng vùng cao, người Dao Tiền ở Bản Sưng, xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình cũ, nay thuộc tỉnh Phú Thọ) vẫn bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có nghi lễ cưới, một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, tín ngưỡng và đạo lý của cộng đồng.

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Chiều 20/10/2025, khoảnh khắc thiêng liêng và xúc động nhất trước thềm lễ hội Katê chính là khi cộng đồng người Chăm làng Hữu Đức (Phước Hữu, Khánh Hòa) trang trọng đón nhận y trang từ người anh em Raglai. Đây không chỉ là một nghi lễ, mà còn là một minh chứng sống động cho mối giao hảo bền chặt, độc đáo đã được trao truyền qua nhiều thế hệ trên mảnh đất đầy nắng và gió. 

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.