Bảo tồn và phát huy điệu lượn Slương của người Tày ở Cao Bằng

Bảo tồn và phát huy điệu lượn Slương của người Tày ở Cao Bằng

Lượn Slương là một làn điệu dân ca độc đáo, đặc sắc của người Tày vùng Việt Bắc nói chung và tỉnh Cao Bằng nói riêng. Hiện nay do tác động của cơ chế thị trường, thế hệ trẻ người dân tộc Tày ít người quan tâm đến thể loại dân ca cổ truyền này, khiến cho điệu lượn Slương có nguy cơ mai một và mất hẳn. Vì vậy, các ngành chức năng tỉnh Cao Bằng cần có những giải pháp để bảo tồn và phát huy giá trị nhân văn của thể loại dân ca độc đáo này.

Theo Thạc sĩ Hoàng Thị Nhuận, Chi hội trưởng Chi hội Văn nghệ dân gian Việt Nam tại Cao Bằng, qua những nghiên cứu về Văn hóa học, Dân tộc học, Văn học dân gian và những văn tự Nôm của người Tày thì lượn Slương khởi nguồn từ huyện Thạch An (tỉnh Cao Bằng) rồi lan truyền đến các vùng lân cận thông qua giao lưu văn hóa tại các lễ hội Xuân hoặc các cuộc hẹn hò giao duyên của thanh niên làng, bản. Lượn Slương được truyền từ đời này qua đời khác theo phương thức truyền khẩu. Do có lịch sử lâu dài nên lượn Slương được coi là pho di sản văn hóa độc đáo quý báu của người Tày.

Thạc sĩ Hoàng Thị Nhuận cho biết thêm, giá trị của lượn Slương nằm ở sự độc đáo về nội dung và nghệ thuật của điệu lượn này. Lượn Slương gồm ba phần là lượn đi đường, lượn sử và lượn chúc mừng. Lượn Slương (nghĩa là lượn Thương) là bộc bạch niềm thương nhớ. Niềm nhớ thương của một tình yêu đã nặng sâu nặng. Cách diễn đạt của lượn Slương mang đậm sắc màu độc thoại hơn là những dấu hiệu hình thức của ngôn ngữ đối thoại…

Lượn Slương phát triển mạnh nhất vào giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Sau đó, cả nước bước vào các cuộc kháng chiến chống giặc ngoài xâm, lượn Slương cũng lắng xuống. Tuy nhiên, lượn Slương vẫn sống âm thầm trong lòng những cụ già yêu thích điệu lượn đặc trưng của dân tộc và mong muốn được phục hồi điệu hát cổ truyền này.

Bà Đinh Thị Đà, 77 tuổi, ở xã Đức Xuân, là một trong những người lớn tuổi nhất của huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, còn yêu và hát điệu lượn Slương. Bà Đà cho biết, trước đây khi còn trẻ bà đã được các cụ bà trong bản dạy hát lượn Slương. Bà lớn lên cùng điệu lượn ngọt ngào, yêu thương đó. Lượn Slương cứ ngấm vào con người cho đến khi bà đi học, đi làm. Cuộc sống tất bật, hai cuộc kháng chiến trường kì cũng làm bà ít hát điệu hát cổ truyền của dân tộc mình.

Đến năm 1985, khi nghỉ hưu, bà Đà bắt đầu sưu tầm và ghi chép lại các bài lượn. Năm 2013, khi Nhà nước có chính sách khôi phục văn hóa các dân tộc thì bà Đà cùng một số người yêu điệu lượn thành lập các nhóm hát lượn Slương xã Đức Xuân, huyện Thạch An. Nhóm hát của bà Đà gồm 8 thành viên, trong đó có hai người 80 tuổi là những người yêu thích văn hóa dân gian, cùng nhau sưu tầm và hát lượn. Nhóm hát lượn của bà Đà thường xuyên đi biểu diễn hát lượn trong các buổi giao lưu ở các thôn, xã trên địa bàn huyện, tham gia các cuộc thi hát dân ca của tỉnh Cao Bằng.

Theo bà Đà, qua những buổi biểu diễn, bà nhận thấy nhiều người Tày vẫn còn yêu thích điệu lượn Slương bởi nội dung những bài lượn Slương là ca ngợi tình cảm giữa con người với con người; giáo dục, khuyên bảo con người sống tốt với nhau... Mặc dù vậy, bà Đà cũng lo lắng, khi lớp người trẻ ở Đức Xuân không ai hát được điệu lượn Slương. Nếu không có người hát được thì sự cảm nhận về điệu hát ngọt ngào, đầy tình yêu thương này không còn... Vì vậy, bà Đà cũng như những người còn biết hát điệu lượn Slương mong muốn các ngành chức năng làm công tác văn hóa trên địa bàn tỉnh Cao Bằng cần có giải pháp phục dựng, hình thành các lớp dạy hát điệu lượn Slương để điệu hát cổ truyền này được bảo tồn và phát huy trong cuộc sống ngày nay.

Anh Nông Văn Cấp, 44 tuổi, ở xã Đức Xuân, huyện Thạch An cho biết, anh là người yêu các làn điệu dân ca dân tộc Tày như hát Then, hát Phong slư, lượn Slương… Biết lượn Slương từ lúc 18 tuổi, theo anh Cấp, lượn Slương có giai điệu ngọt ngào, yêu thương, sâu lắng. Ngày trước làng bản nào có đám đến lượn thì chứng tỏ làng bản đó giàu có, trù phú và mến khách. Lượn Slương được hát vào ban đêm trong không gian nhà sàn, bên bếp lửa. Ngày nay, một số điệu lượn Slương đã được biểu diễn ở đám cưới, trong các buổi sinh hoạt văn nghệ của thôn, bản. Trước thực trạng điệu lượn này có thể mất đi, anh Cấp tập trung sưu tầm và ghi chép các bài lượn của các cụ trước đây. Cùng với đó, anh đang cố gắng truyền dạy cho một số bạn trẻ yêu các làn điệu dân ca dân tộc Tày để thế hệ sau này phát huy được những giá trị của lượn Slương…

Bàn về giải pháp bảo tồn và phát huy các làn điệu dân ca dân tộc Tày, ông Vũ Tuấn Nghĩa, Phó Trưởng phòng Văn hóa Thể thao huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng cho biết, hiện nay trên địa bàn huyện đang có một số lớp giảng dạy một số làn điệu dân ca dân tộc Tày, Nùng. Các lớp dạy dân ca này bước đầu phát huy hiệu quả, lôi cuốn được một số bạn trẻ tham gia.

Ngành Văn hóa huyện Thạch An cũng xác định, thời gian tới, huyện sẽ đưa dân ca Tày vào giảng dạy trong học đường một cách hệ thống, bài bản, tạo điều kiện cho thế hệ trẻ, được tiếp cận với văn hóa truyền thống, văn hóa dân gian, dân ca các dân tộc. Đây là hành động mang tính chiến lược, đúng đắn, thiết thực nhằm không ngừng bảo tồn và phát huy, phát triển dân ca các dân tộc trong huyện… Cùng với đó, huyện kết hợp với các ngành chức năng phục dựng lại các điệu dân ca đang có nguy cơ mai một và mất hẳn.

Chu Hiệu

(TTXVN)
Dân tộc Tày

Tên gọi khác: Thổ.

Dân số: 1.626.392 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Nhóm địa phương: Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao và Pa Dí.

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).

Lịch sử: Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên.

Hoạt động sản xuất: Người Tày là cư dân nông nghiệp có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Họ có tập quán đập lúa ở ngoài đồng trên những máng gỗ mà họ gọi là loỏng rồi mới dùng dậu gánh thóc về nhà. Ngoài lúa nước người Tày còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả... Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến nay vẫn còn khá phổ biến. Các nghề thủ công gia đình được chú ý. Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo. Chợ là một hoạt động kinh tế quan trọng.

Ăn: Trước kia, ở một số nơi, người Tày ăn nếp là chính và hầu như gia đình nào cũng có ninh và chõ đồ xôi. Trong các ngày tết, ngày lễ thường làm nhiều loại bánh trái như bánh chưng, bánh giày, bánh gai, bánh dợm, bánh gio, bánh rán, bánh trôi, bánh khảo... Ðặc biệt có loại bánh bột hấp dẫn nhân bằng trứng kiến và cốm được làm từ thóc nếp non hơ lửa, hoặc rang rồi đem giã.

Mặc: Bộ y phục cổ truyền của người Tày làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không thêu thùa, trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài. Nhóm Ngạn mặc áo ngắn hơn một chút, nhóm Phén mặc áo màu nâu, nhóm Thu Lao quấn khăn thành chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm Pa Dí đội mũ hình mái nhà còn nhóm Thổ mặc như người Thái ở Mai Châu (Hòa Bình).

vna_potal_tuyen_quang_gin_giu_nghe_det_tho_cam_cua_nguoi_tay_o_thuong_nong_5693566.jpg
Phụ nữ Tày biết dệt vải, may quần áo từ khi mới 13-14 tuổi. Ảnh: Nam Sương - TTXVN

: Người Tày cư trú ở vùng thung lũng các tỉnh Ðông Bắc, từ Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang đến Lào Cai, Yên Bái. Họ thích sống thành bản làng đông đúc, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà.

Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn có bộ sườn làm theo kiểu vì kèo 4, 5, 6 hoặc 7 hàng cột. Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hay lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa.

Phương tiện vận chuyển: Với những thứ nhỏ, gọn người Tày thường cho vào dậu để gánh hoặc cho vào túi vải để đeo trên vai, còn đối với những thứ to, cồng kềnh thì dùng sức người khiêng vác hoặc dùng trâu kéo. Ngoài ra, họ còn dùng mảng để chuyên chở.

Quan hệ xã hội: Chế độ quằng là hình thức tổ chức xã hội đặc thù theo kiểu phong kiến sơ kỳ mang tính chất quý tộc, thế tập, cha truyền con nối.

Trong phạm vi thống trị của mình quằng là người sở hữu toàn bộ ruộng đất, rừng núi, sông suối... vì thế có quyền chi phối những người sống trên mảnh đất đó và bóc lột họ bằng tô lao dịch, bắt phải đến lao động không công và tô hiện vật, buộc phải cống nạp. Chế độ quằng xuất hiện từ rất sớm và tồn tại dai dẳng mãi đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Cưới xin: Nam nữ Tày được tự do yêu đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng hay không lại tuỳ thuộc vào bố mẹ hai bên và "số mệnh" của họ có hợp nhau hay không. Vì thế trong quá trình đi tới hôn nhân phải có bước nhà trai xin lá số của cô gái về so với lá số của con mình. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng.

Sinh đẻ: Khi có mang cũng như trong thời gian đầu sau khi đẻ, người phụ nữ phải kiêng cữ nhiều thứ khác nhau với ước muốn được mẹ tròn, con vuông, đứa bé chóng lớn, khoẻ mạnh và tránh được những vía độc hại.

Sau khi sinh được 3 ngày cúng tẩy vía và lập bàn thờ bà mụ. Khi đầy tháng tổ chức lễ ăn mừng và đặt tên cho trẻ.

Ma chay: Ðám ma thường được tổ chức linh đình với nhiều nghi lễ nhằm mục đích báo hiếu và đưa hồn người chết về bên kia thế giới. Sau khi chôn cất 3 năm làm lễ mãn tang, đưa hồn người chết lên bàn thờ tổ tiên. Hàng năm tổ chức cúng giỗ vào một ngày nhất định.

Nhà mới: Khi làm nhà phải chọn đất xem hướng, xem tuổi, chọn ngày tốt. Trong ngày vào nhà mới chủ gia đình phải nhóm lửa và giữ ngọn lửa cháy suốt đêm đến sáng hôm sau.

Thờ cúng: Người Tày chủ yếu thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra còn thờ cúng thổ công, vua bếp, bà mụ.

Lễ tết: Hàng năm có nhiều ngày tết với những ý nghĩa khác nhau. Tết Nguyên đán, mở đầu năm mới và tết rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm lịch, sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết rất đặc trưng cho dân nông nghiệp trồng lúa nước.

Lịch: Người Tày theo âm lịch.

Học: Chữ nôm Tày xây dựng trên mẫu tự tượng hình, gần giống chữ nôm Việt ra đời khoảng thế kỷ XV được dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng... Chữ Tày-Nùng dựa trên cơ sở chữ cái La-tinh ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa năm 80 được dùng trong các trường phổ thông cấp I vùng có người Tày, Nùng cư trú.

Văn nghệ: Người Tày có nhiều làn điệu dân ca như lượn, phong slư, phuối pác, phuối rọi, vén eng... Lượn gồm lượn cọi, lượn slương, lượn then, lượn nàng ới... là lối hát giao duyên được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng. Người ta thường lượn trong hội lồng tồng, trong đám cưới, mừng nhà mới hay khi có khách đến bản. Ngoài múa trong nghi lễ ở một số địa phương có múa rối với những con rối bằng gỗ khá độc đáo.

Chơi: Trong ngày hội lồng tồng ở nhiều nơi tổ chức ném còn, đánh cầu lông, kéo co, múa sư tử, đánh cờ tướng... Ngày thường trẻ em đánh quay, đánh khăng, đánh chắt, chơi ô...

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Tày

Có thể bạn quan tâm

Kế thừa và phát huy di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

Kế thừa và phát huy di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

Ngày 19/12, tại Trung tâm Văn hóa - Du lịch tỉnh Đắk Lắk, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh tổ chức Liên hoan Văn hóa Cồng chiêng và Nhạc cụ truyền thống các dân tộc năm 2025 với chủ đề với chủ đề “Âm vang cồng chiêng - gắn kết cộng đồng”.

Lạng Sơn: Bảo tồn và quảng bá văn học dân gian của các dân tộc thiểu số

Lạng Sơn: Bảo tồn và quảng bá văn học dân gian của các dân tộc thiểu số

Bảo tồn và phát huy giá trị văn học dân gian các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc… là những vấn đề trọng tâm được phân tích, luận bàn, đưa ra tại Hội thảo: “Nâng cao chất lượng, hiệu quả trong nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn tác phẩm, công trình văn học dân gian của các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh”, do Hội Văn học Nghệ thuật và Nhà báo tỉnh Lạng Sơn tổ chức chiều 18/12.

Kỹ nghệ kéo sợi của phụ nữ Dao

Kỹ nghệ kéo sợi của phụ nữ Dao

Để làm ra được những chiếc áo truyền thống với vẻ đẹp sặc sỡ, tỉ mỉ của phụ nữ Dao ở bản Hùng Pèng, xã Phong Thổ (tỉnh Lai Châu) phải trải qua rất nhiều công đoạn và được làm hoàn toàn thủ công. Trong những công đoạn đó, công đoạn kéo sợi cần phải tỉ mỉ, kỳ công để từ những sợi vải nhỏ, ngắn được đan bện lại với nhau thành những cuộn vải bền đẹp.

Người tiếp lửa đam mê văn hóa dân tộc Cao Lan

Người tiếp lửa đam mê văn hóa dân tộc Cao Lan

Nghệ nhân Nhân dân Sầm Văn Dừn là người dân tộc Cao Lan, ở thôn Mãn Hóa, xã Phú Lương, tỉnh Tuyên Quang. Chứng kiến sự mai một của nhiều giá trị truyền thống theo thời gian, ông luôn trăn trở, tích cực nghiên cứu, học hỏi, sưu tầm, gìn giữ và thực hành các di sản văn hóa truyền thống của dân tộc mình.

Tạo sức sống mới cho di sản văn hóa Chăm

Tạo sức sống mới cho di sản văn hóa Chăm

Với hệ thống đền tháp, lễ hội, làng nghề và kho tàng di sản vật thể, phi vật thể đặc sắc, văn hóa Chăm ở Khánh Hòa không chỉ là dấu ấn lịch sử - văn hóa lâu đời, mà còn đang được bảo tồn, phát huy, gắn với phát triển du lịch và sinh kế cộng đồng, tạo sức sống mới cho di sản văn hóa Chăm trong đời sống đương đại.

Nâng tầm di sản quốc gia 'Nghề làm bánh Pía'

Nâng tầm di sản quốc gia 'Nghề làm bánh Pía'

Chiều 16/12, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố Cần Thơ tổ chức Hội nghị công bố kết quả thực hiện Đề án Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể quốc gia nghề thủ công truyền thống “Nghề làm bánh Pía”.

Phát huy hiệu quả các mô hình giáo dục di sản trong trường học

Phát huy hiệu quả các mô hình giáo dục di sản trong trường học

Cùng với việc nâng cao chất lượng dạy học, hiện nay, nhiều trường học trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ngày càng chú trọng việc đưa văn hóa truyền thống đồng bào dân tộc thiểu số vào trong các chương trình giảng dạy, hoạt động ngoại khóa, ngày hội…; qua đó giúp các em nâng cao ý thức gìn giữ và phát huy các di sản văn hóa đặc sắc của dân tộc mình.

Lễ hội Diều sáo nghệ thuật thu hút đông đảo người dân

Lễ hội Diều sáo nghệ thuật thu hút đông đảo người dân

Lễ hội Diều sáo nghệ thuật Bù Đăng năm 2025 và Chương trình ẩm thực đồng quê đã diễn ra ngày 14/12, tại xã Bù Đăng, tỉnh Đồng Nai. Lễ hội thu hút 20 đội diều sáo nghệ thuật đến từ các câu lạc bộ ở Đồng Nai, Lâm Đồng, TP Hồ Chí Minh, Đăk Lăk, Hải Phòng, Hưng Yên, Tây Ninh… tham gia với hơn 140 diều. Tại Lễ hội các đội tham gia dự thi ở 3 hạng mục: Thi diều vượt câu liêm, Thi diều đẹp, sáo đẹp, Thi diều to, sáo to.

Ngày hội văn hoá Mông tại Hà Nội

Ngày hội văn hoá Mông tại Hà Nội

Ngày 13/12/2025, tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Hà Nội) diễn ra Ngày hội văn hoá Mông 2025. Sự kiện do doanh nghiệp Xã hội CRAFT LINK tổ chức quy tụ 8 nhóm Mông đến từ Cao Bằng, Lào Cai, Tuyên Quang, Điện Biên, Phú Thọ, Nghệ An với những trưng bày đặc sắc về trang phục, hoa văn và nghề thủ công truyền thống, nhằm tôn vinh bản sắc văn hóa, nghề thủ công truyền thống và đời sống tinh thần phong phú của cộng đồng người Mông trên cả nước.

Dệt văn hóa Thái trên những khung cửi Pù Luông

Dệt văn hóa Thái trên những khung cửi Pù Luông

Nằm trong vùng lõi của Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, làng nghề dệt thổ cẩm thôn Lặn Ngoài (xã Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa) đang trở thành điểm đến hấp dẫn khách du lịch quốc tế bởi những câu chuyện văn hóa qua từng khung cửi. Ở đó, bên nếp nhà sàn, những người phụ nữ dân tộc Thái mỗi ngày cần mẫn đưa thoi, dệt nên những nét hoa văn đặc trưng của núi rừng Pù Luông.

Đồng bào Si La tưng bừng đón Lễ hội mừng cơm mới

Đồng bào Si La tưng bừng đón Lễ hội mừng cơm mới

Ngày 12/12, UBND xã Mường Nhé (tỉnh Điện Biên) tổ chức Lễ công bố quyết định và đón nhận Giấy chứng nhận Di sản văn hóa Phi vật thể quốc gia “Lễ mừng cơm mới của người Si La” và tổ chức Lễ hội mừng cơm mới năm 2025 tại bản Nậm Sin.

Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực Miền núi phía Bắc lần thứ 24

Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực Miền núi phía Bắc lần thứ 24

Ngày 12/12, UBND tỉnh Cao Bằng phối hợp với Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam tổ chức Lễ Tổng kết, trao giải và khai mạc triển lãm Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực Miền núi phía Bắc lần thứ 24 với chủ đề “Vẻ đẹp đất nước - con người miền núi phía Bắc”.

Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực Miền núi phía Bắc lần thứ 24

Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực Miền núi phía Bắc lần thứ 24

Ngày 12/12, UBND tỉnh Cao Bằng phối hợp với Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam tổ chức Lễ Tổng kết, trao giải và khai mạc triển lãm Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực miền núi phía Bắc lần thứ 24 với chủ đề “Vẻ đẹp đất nước - con người miền núi phía Bắc”

Liên hoan câu lạc bộ cồng chiêng tỉnh Lâm Đồng

Liên hoan câu lạc bộ cồng chiêng tỉnh Lâm Đồng

Tối 11/12, tại nhà truyền thống tổ dân phố N’Jriêng (phường Đông Gia Nghĩa), Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lâm Đồng tổ chức khai mạc Liên hoan các câu lạc bộ cồng chiêng tỉnh lần thứ nhất, năm 2025 với chủ đề “Sắc màu hội tụ và lan tỏa”.

Người giữ nhịp dân ca Bru - Vân Kiều giữa đại ngàn Trường Sơn

Người giữ nhịp dân ca Bru - Vân Kiều giữa đại ngàn Trường Sơn

Cứ mỗi buổi chiều đến, trong căn Nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng ở khóm 6, xã Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị lại vang lên những âm thanh mộc mạc mà quen thuộc. Đó là tiếng đàn, tiếng hát của lớp học dân ca Bru - Vân Kiều. Giữa không gian ấy, hình ảnh ông Hồ Văn Mang, chỉnh từng câu hát, từng âm, từng vần, bắt từng nhịp đàn, vẫn cần mẫn truyền dạy cho thanh thiếu niên trong bản đã trở nên quen thuộc với bao thế hệ học trò.

Nét văn hóa dân tộc Chứt mở hướng du lịch vùng biên

Nét văn hóa dân tộc Chứt mở hướng du lịch vùng biên

Dân tộc Chứt ở tỉnh Quảng Trị hiện có 2.054 hộ với 8.227 nhân khẩu, sinh sống tập trung chủ yếu tại các xã Kim Phú, Kim Điền, Tuyên Lâm, Dân Hóa và Thượng Trạch. Tỉnh Quảng Trị đang nỗ lực bảo tồn các nét văn hóa dân tộc Chứt thông qua việc xây dựng các Câu lạc bộ văn hóa dân gian, mở ra hướng phát triển du lịch văn hóa vùng biên.

Rộn ràng chợ phiên vùng cao Keo Lôm

Rộn ràng chợ phiên vùng cao Keo Lôm

Trong tiết trời se lạnh của buổi sớm mai nơi vùng cao Na Son (Điện Biên), chợ phiên Keo Lôm bừng lên sức sống khi đồng bào các dân tộc mang nông sản, sản vật rừng xuống chợ trao đổi, mua bán. Phiên chợ được họp vào ngày thứ 7 hàng tuần, không chỉ là nơi giao thương quen thuộc của người dân địa phương mà còn trở thành điểm đến hấp dẫn để du khách khám phá, trải nghiệm những nét văn hóa đặc trưng của vùng cao Điện Biên.

Giữ tiếng chiêng linh thiêng giữa đại ngàn Trường Sơn

Giữ tiếng chiêng linh thiêng giữa đại ngàn Trường Sơn

Giữa đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, ở phía Tây tỉnh Quảng Trị, nơi những ngọn núi trùng điệp xanh mướt nối tiếp nhau trập trùng, có những bản làng bình yên của người Pa Cô, Vân Kiều sinh sống bao đời nay. Ở nơi đây, tiếng hát, tiếng đàn, điệu khèn vẫn ngân vang mỗi buổi sớm, chiều. Giữa nhịp sống hiện đại, vẫn có những con người thầm lặng, bền bỉ cống hiến cả cuộc đời để bảo tồn tiếng hát, điệu múa, tiếng cồng chiêng và linh hồn của núi rừng quê hương. Đó chính là cội nguồn, bản sắc độc đáo riêng của dân tộc không thể nào bị lãng quên.

“Dáng giày nét Giáy”: Khi người trẻ tham gia bảo tồn nghề làm giày truyền thống của người Giáy

“Dáng giày nét Giáy”: Khi người trẻ tham gia bảo tồn nghề làm giày truyền thống của người Giáy

Trước nguy cơ mai một của một trong những di sản văn hóa độc đáo, dự án “Dáng giày nét Giáy” do InterArts Agency thực hiện đã mang đến một hướng tiếp cận mới mẻ thông qua chuỗi hoạt động trải nghiệm thực tế. Nổi bật trong số đó là workshop làm giày thủ công, nơi kết nối các nghệ nhân bản địa với thế hệ trẻ, biến di sản thành chất liệu sáng tạo đầy sức sống trong bối cảnh hiện đại.

Gần 400 nghệ nhân, diễn viên thi tài ở các tiết mục Then cổ

Gần 400 nghệ nhân, diễn viên thi tài ở các tiết mục Then cổ

Tối 26/11 tại Trung tâm Văn hoá - Triển lãm tỉnh, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh tổ chức khai mạc Liên hoan hát Then, đàn Tính tỉnh Bắc Ninh lần thứ nhất năm 2025 với chủ đề “Bảo tồn, phát huy nghệ thuật hát Then, đàn Tính các dân tộc Tày, Nùng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay”.

Tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Cor

Tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Cor

Nhân Ngày Di sản văn hóa Việt Nam (23/11), Bảo tàng Đà Nẵng tổ chức “Ngày hội Di sản văn hóa Đà Nẵng năm 2025” với chủ đề “Đa dạng sắc màu văn hóa vùng cao Đà Nẵng”, nhằm giới thiệu, tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Cor đang sinh sống tại khu vực miền núi phía Tây thành phố.