Độc đáo nhà sàn Ba Na

Anh A Nhưk, làng Kon Xăm Lũ giới thiệu về ngôi nhà sàn của người Ba Na. Ảnh: D.Đ.N
Anh A Nhưk, làng Kon Xăm Lũ giới thiệu về ngôi nhà sàn của người Ba Na. Ảnh: D.Đ.N

Người Ba Na là một trong những cư dân sinh tụ lâu đời, có dân số đông thứ hai trong số các dân tộc thiểu số (DTTS) tại chỗ (sau người Xê Đăng) ở tỉnh, địa bàn cư trú tập trung ở quanh thành phố Kon Tum và một phần ở các huyện Đăk Hà, Kon Rẫy, Sa Thầy... Cũng như nhiều dân tộc khác ở Tây Nguyên, người Ba Na ở Kon Tum có những phong tục tập quán, văn hóa phong phú và giàu bản sắc, trong đó nhà sàn là một di sản văn hóa độc đáo.

Thoạt nhìn bề ngoài, nhà sàn của người Ba Na cũng giống như nhà sàn của những DTTS tại chỗ khác, nhưng tìm hiểu kỹ thì mới biết nhà sàn của người Ba Na lại có những nét độc đáo riêng.

Để tìm hiểu kỹ hơn về nhà sàn của người Ba Na, chúng tôi tìm gặp anh A Nhưk - một thợ chuyên làm nhà sàn ở làng Kon Xăm Lũ (xã Đăk Tờ Re, huyện Kon Rẫy).

Anh A Nhưk cho biết: Nhà sàn của người Ba Na có hình chữ nhật, chiều ngang dài khoảng 10m. Mỗi căn nhà đều có 12 cây cột chia mỗi bên 6 cây, sàn nhà thường được làm bằng tre, nứa, lồ ô; vách được trát bằng đất với rơm hay bằng phên tre nứa. Nhà nào “giàu” hơn thì vách và sàn được lót bằng gỗ dầu, vừa mát, vừa giữ được mặt phẳng và chắc.

Độc đáo nhà sàn Ba Na ảnh 1Anh A Nhưk, làng Kon Xăm Lũ giới thiệu về ngôi nhà sàn của người Ba Na. Ảnh: D.Đ.N

Anh A Nhưk đưa chúng tôi đến ngôi nhà sàn lâu năm nhất ở giữa làng để giới thiệu về nét độc đáo của nó. Đây là ngôi nhà của cha anh để lại cho cô em gái anh trước khi qua đời. Ngôi nhà nằm ẩn khuất giữa vườn cây um tùm, tạo một không gian yên bình và mát mẻ.

A Nhưk đưa tay chỉ vào các cây cột nhà nói: Thông thường người ta thường chọn cây gỗ cà chít để làm trụ cột, bởi loại cây này có vị đắng và cứng, chắc, ít bị mối ăn, cột được chôn sâu dưới đất khoảng 1m. Tuy nhiên, gỗ cà chít ngày càng hiếm và qua kinh nghiệm nhiều năm, ngày nay người dân thường không chôn cột mà tán đế bằng xi măng hoặc bằng đá rồi dựng cột. Làm theo kiểu này thì cột không bị lún và không bị mối ăn, dù cột được làm bằng loại gỗ khác.

Quan sát ngôi nhà sàn theo sự giới thiệu của A Nhưk, chúng tôi nhận thấy phần mộc bên trong ngôi nhà có những nét sau: Các cột nhà được đẽo tròn hoặc vuông có đường kính phần gốc khoảng 30cm và xuôi về ngọn đường kính còn khoảng 20cm. Trên ngọn cột có đục một lỗ hình vuông để kết nối cột và trính thượng.

Độc đáo nhà sàn Ba Na ảnh 2Gian nhà chồ làm nơi hóng mát. Ảnh: D.Đ.N

Vào giữa gian nhà sàn, điều gây chú ý nhất là khoảng không gian thoáng đãng, mát mẻ bởi sàn nhà và vách được đóng bằng những tấm gỗ dầu phẳng lì. Phía trên hai chái nhà là cây trính thượng và trính hạ được đẽo thành khối hình chữ nhật, cách nhau khoảng 2m, hai cây đà được gác lên hai hàng trên đầu cây cột. Ở chính giữa trính thượng có một trụ lỏng để chống đỡ đòn dông, các rui gác lên đòn dông để lợp mái.

Qua tìm hiểu, một ngôi nhà sàn của người Ba Na bao giờ cũng có hai mái chính và hai mái phụ ở hai đầu gọi là chái. Thông thường nhà sàn có 6 gian (tùy theo số người ở mà tăng, giảm số gian, nếu đông người ở thì gọi là nhà dài), trong đó gian đầu cùng hoặc gian cuối có vách ngăn phòng dành cho cha mẹ. Mái lợp thông thường bằng cỏ tranh hoặc ngói. Cách đánh tranh để lợp mái cũng không mấy dễ dàng, chỉ có những người thợ điêu luyện mới làm được.

Tranh lợp mái cần phải biết chọn loại tranh tốt, to và dài nhưng phải là loại tranh già mới giữ được độ chắc, bền. Việc cắt tranh đem về cũng cần tuân thủ theo nguyên tắc của nó. Khi cắt tranh, cần sự khéo léo để cắt cho bằng gốc và chải sạch các loại cỏ rác, sau đó bó lại thành từng bó nhỏ, nhiều bó nhỏ bó lại thành bó to để tranh không bị rối, rồi mới đưa về.

Khi đánh tranh làm mái lợp, phải đánh từng tấm dài khoảng 1m, dùng thanh hai cây le chẻ đôi kẹp lại rồi dùng lạt mềm, dẻo buộc chặt. Thông thường, người Ba Na thường dùng dây mây hoặc các loại dây rừng khác có độ dẻo để làm dây buộc mái, rui, mè…

Nhà sàn người Ba Na có cửa chính ngay ở gian giữa và ngay phía trước cửa chính được cất thêm một gian nữa ló ra ngoài gọi là nhà chồ. Vì vậy, nhìn ngôi nhà sàn của người Ba Na giống như một chữ T.

Sàn nhà chồ được làm bằng ván gỗ dày và to. Đây là nơi dành cho phụ nữ giã gạo vào những buổi sáng sớm hoặc chiều tối khi đi làm nương rẫy về. Nhà chồ cũng là nơi gia đình ra ngồi chơi hóng mát trong những đêm hè nóng nực. Sở dĩ nhà chồ được thoáng đãng là bởi không có vách như nhà chính, mặt trước thường hướng về phía nam nên mát mẻ. Để bước lên nhà chính, người ta bắc một chiếc cầu thang sát vách nhà chính, sau đó phải lên nhà chồ trước rồi mới tới cửa nhà chính.

Độc đáo nhà sàn Ba Na ảnh 3Gian nhà giữa làm nơi tiếp khách. Ảnh: D.Đ.N

Bước vào cửa là gian nhà giữa. Gian nhà này thường dùng để tiếp khách. Đối với khách quý, chủ nhà thường trải chiếu mời và mang bầu nước đầy, mát lạnh mời khách uống hay ché rượu cần mỗi khi có những buổi giao lưu, tiếp đãi long trọng.

Hiện tại, nhà sàn của người Ba Na ở xã Đăk Tờ Re còn lại rất ít. Nhiều ngôi nhà sàn xuống cấp, hư hỏng nhưng người Ba Na không thể tu sửa, cất mới lại vì gỗ làm nhà sàn ngày càng trở nên hiếm hoi.

Trước đây, nhiều ngôi nhà sàn của người Ba Na xưa được làm bằng gỗ quý như trắc, hương… Nhưng theo thời gian khi các loại gỗ quý trở nên hiếm hoi, những thế hệ con cháu sau này đã bán cho tư thương săn lùng gỗ quý. Số tiền trên họ dùng xây cất một căn nhà bằng gạch, xi măng tân thời, hiện đại.

Chia tay với những người Ba Na ở trong ngôi nhà sàn mà tôi vừa đặt chân tới, trong lòng bỗng trỗi lên một cảm giác xốn xang: Liệu rằng trong tương lai xa, nhà sàn của người Tây Nguyên nói chung, người Ba Na nói riêng có còn tồn tại giữa dòng chảy đô thị hóa?

Theo baokontum.com.vn

Dân tộc Ba Na

Tên tự gọi: Ba Na.

Tên gọi khác: Bơ Nâm, Roh, Kon Kđe, Ala Kông, Kpang Kông...

Nhóm địa phương: Rơ Ngao, Rơ Lơng (hay Y Lăng), Tơ Lô, Gơ Lar Krem.

Dân số: 227.716 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Dân tộc Ba Na là một trong những cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên đã kiến lập nên nền văn hoá độc đáo ở đây. Họ là tộc người có dân số đông nhất, chiếm vị trí rất quan trọng trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội ở các cao nguyên miền Trung nước ta.

Hoạt động sản xuất: Người Ba Na canh tác lúa trên ruộng khô và rẫy. Cái cuốc là công cụ chủ yếu trong canh tác nông nghiệp ở tộc người này. Với ruộng khô thì việc thâm canh không bỏ hóa là đặc điểm khác với rẫy. Ruộng khô thường ở vùng ven sông suối. Từ đầu thế kỷ XX, việc làm ruộng nước bằng cày đã ngày càng phát triển ở nhiều nơi. Vườn chuyên canh và vườn đa canh cũng xuất hiện từ lâu. Công việc chăn nuôi và các nghề thủ công như: đan, dệt, gốm, rèn còn chưa phát triển.

: Ðịa bàn cư trú của người Ba Na trải rộng trên các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và miền Tây của Bình Ðịnh, Phú YênKhánh Hòa. Họ cư trú trên nhà sàn, cửa ra vào mở về phía mái, trên hai đầu đốc đều có trang trí hình sừng, ở giữa làng được xây cất một ngôi nhà công cộng - nhà làng, nhà rông với hai mái vồng và cao vút. Ðó là nhà khách của làng, nơi diễn ra mọi sinh hoạt chung của cộng đồng làng như giáo dục thanh thiếu niên, tổ chức nghi lễ, hội làng, xử án...

Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là cái gùi cõng trên lưng, cho nam, nữ và cho mọi lứa tuổi. Gùi nhiều kích cỡ to nhỏ và nhiều chủng loại, đan mau và thưa nhưng đều theo một mô típ cổ truyền.

Quan hệ xã hội: Làng là đơn vị xã hội hoàn chỉnh và duy nhất. Tàn dư mẫu hệ vẫn thể hiện rõ trong quan hệ gia đình, tộc họ và trong hôn nhân. Sự tan rã của chế độ mẫu hệ ở đây đã nâng cao địa vị của nam giới nhưng phía mẹ vẫn gần gũi hơn. Sau hôn nhân còn phổ biến tập quán cư trú phía nhà vợ. Xã hội có người giàu, người nghèo và tôi tớ.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Ba Na

Có thể bạn quan tâm

Bảo tồn không gian văn hóa của người Xơ Đăng

Bảo tồn không gian văn hóa của người Xơ Đăng

Trong hai ngày 11 và 12/12, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi tổ chức bàn giao mô hình bảo tồn di sản văn hóa truyền thống của dân tộc Xơ Đăng (nhóm Tơ Đ’ră) tại xã Ngọc Réo và dân tộc Xơ Đăng (nhóm Mơ Nâm) tại xã Kon Plông.

Sắc màu hội tụ và lan tỏa bản sắc 49 dân tộc tỉnh Lâm Đồng

Sắc màu hội tụ và lan tỏa bản sắc 49 dân tộc tỉnh Lâm Đồng

Chiều 12/12, tại Nhà truyền thống tổ dân phố N’Jriêng (phường Đông Gia Nghĩa), Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lâm Đồng tổ chức lễ bế mạc Liên hoan các câu lạc bộ cồng chiêng tỉnh lần thứ nhất, năm 2025 với chủ đề “Sắc màu hội tụ và lan tỏa”.

Độc đáo lễ mừng cơm mới của đồng bào Thái ở Mai Châu

Độc đáo lễ mừng cơm mới của đồng bào Thái ở Mai Châu

Trong không gian nhà sàn trầm ấm thoảng hương lúa mới, lễ cúng mừng cơm mới của đồng bào Thái ở Mai Châu, Phú Thọ từ nhiều đời nay vẫn được gìn giữ như một nghi lễ thiêng liêng. Lễ cúng mừng cơm mới là lời tri ân mùa màng, biểu tượng của văn hóa nông nghiệp lúa nước, là sợi dây gắn kết gia đình, dòng họ, cộng đồng người Thái trong hành trình lao động và gìn giữ bản sắc dân tộc.

Bảo tồn, gìn giữ giá trị Lễ mừng lúa mới của đồng bào Giẻ Triêng

Bảo tồn, gìn giữ giá trị Lễ mừng lúa mới của đồng bào Giẻ Triêng

Từ ngày 4 - 6/12/2025, Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp cùng Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tổ chức truyền dạy và phục dựng Lễ mừng lúa mới của dân tộc Giẻ Triêng, nhằm mục tiêu bảo tồn, gìn giữ những giá trị văn hóa của nghi lễ đặc trưng này, trong bối cảnh có nguy cơ bị mai một theo thời gian.

Tiếp tục khơi dòng chảy văn hóa bản địa đặc sắc của người Ê Đê

Tiếp tục khơi dòng chảy văn hóa bản địa đặc sắc của người Ê Đê

Người Ê Đê sinh sống tại huyện Sông Hinh (tỉnh Phú Yên cũ) nay thuộc các xã: Sông Hinh, Đức Bình, Ea Ly, Ea Bá (tỉnh Đắk Lắk) hiện còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống bản địa đặc sắc, độc đáo. Sau khi sáp nhập địa giới hành chính, chính quyền địa phương đã nỗ lực phát huy những giá trị đó trở thành điểm nhấn trong dòng chảy văn hóa địa phương, tạo thêm nhiều việc làm mới tăng thu nhập cho người Ê Đê thông qua các đề án phát triển du lịch cộng đồng.

Âm vang trống đồng trong đời sống người Lô Lô

Âm vang trống đồng trong đời sống người Lô Lô

Khi ánh mặt trời đầu ngày vừa chạm lên những mái trình tường vàng nơi bản Lô Lô Chải, sương vẫn còn quấn quanh triền núi, tiếng trống đồng bỗng ngân lên - trầm, vang, dội vào vách đá rồi lan ra thung sâu như một luồng sinh khí đánh thức cả cao nguyên. Đấy không chỉ là âm thanh mở đầu của lễ hội, mà là nhịp đập của bao thế hệ người Lô Lô, là lời khẳng định rằng giữa đại ngàn đá xám gió ngàn, bản làng này vẫn giữ trọn linh hồn văn hóa tự ngàn xưa.

Khát vọng vươn lên của xã miền núi Phú Thọ

Khát vọng vươn lên của xã miền núi Phú Thọ

Xã Liên Sơn nằm trong nhóm 5 xã có quy mô lớn nhất tỉnh Phú Thọ, sở hữu địa hình đa dạng, nguồn tài nguyên phong phú và nền văn hóa bản địa giàu bản sắc của đồng bào Mường.

Sắc màu văn hoá của đồng bào Chăm

Sắc màu văn hoá của đồng bào Chăm

Không gian văn hóa đền tháp của đồng bào Chăm tỉnh Khánh Hòa là điểm nhấn đặc sắc nằm trong chuỗi các hoạt động của Tuần “Đại đoàn kết các dân tộc - Di sản Văn hóa Việt Nam” (18 - 24/11/2025) đang được giới thiệu tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Sơn Tây, Hà Nội).

Sắc màu dân tộc thiểu số ở Bắc Ninh

Sắc màu dân tộc thiểu số ở Bắc Ninh

Tỉnh Bắc Ninh có trên 39 vạn người đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống (chiếm 11,02% dân số toàn tỉnh) với nhiều thành phần dân tộc, trong đó có 7 thành phần dân tộc thiểu số chủ yếu gồm: Nùng, Tày, Sán Dìu, Hoa, Cao Lan, Sán Chí, Dao (chiếm 97,78% tổng số người dân tộc thiểu số). Mỗi dân tộc có trang phục, tập quán riêng tạo sự khác biệt và đa dạng văn hóa cho vùng đất này.

Quảng bá thương hiệu trà Shan tuyết

Quảng bá thương hiệu trà Shan tuyết

Ngày 5/11, tại Nhà văn hóa Trung tâm, phường An Tường (Tuyên Quang), Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tuyên Quang tổ chức Hội thi sản phẩm trà Shan tuyết và kỹ thuật pha chế trà năm 2025.

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Hằng năm, vào ngày Mão tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân xã Đông Cuông, tỉnh Lào Cai rộn ràng tổ chức Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông. Đây là hoạt động truyền thống nhằm tổng kết một năm lao động, sản xuất, những người con quê hương, du khách bày tỏ lòng tri ân với Mẫu Thượng Ngàn, các đấng siêu nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Sáng 23/10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên tổ chức Khai mạc Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh, năm 2025. Sự kiện là hoạt động thiết thực nhằm chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025 - 2030; hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/1945 - 23/11/2025) và 80 năm Ngày Thể thao Việt Nam (27/3/1946 - 27/3/2026).

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Giữa nhịp sống hiện đại đang lan tỏa tới từng bản làng vùng cao, người Dao Tiền ở Bản Sưng, xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình cũ, nay thuộc tỉnh Phú Thọ) vẫn bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có nghi lễ cưới, một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, tín ngưỡng và đạo lý của cộng đồng.

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Chiều 20/10/2025, khoảnh khắc thiêng liêng và xúc động nhất trước thềm lễ hội Katê chính là khi cộng đồng người Chăm làng Hữu Đức (Phước Hữu, Khánh Hòa) trang trọng đón nhận y trang từ người anh em Raglai. Đây không chỉ là một nghi lễ, mà còn là một minh chứng sống động cho mối giao hảo bền chặt, độc đáo đã được trao truyền qua nhiều thế hệ trên mảnh đất đầy nắng và gió. 

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.