Gìn giữ đặc trưng phong tục văn hóa, tín ngưỡng của cộng đồng dân tộc Ơ Đu

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có quyết định số 2192/QĐ-BVHTTDL về việc công nhận “Lễ đón tiếng sấm đầu năm của dân tộc Ơ Đu ở xã Nga My-Nghệ An” là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, thuộc loại hình tập quán xã hội và tín ngưỡng.

tieng-sam-060725-2.jpg
Mở đầu cho lễ đón tiếng sấm đầu năm là nghi thức cúng bản. Đây là nghi thức rất quan trọng để thầy mo, các vị già làng, trưởng bản, người có uy tín sẽ khấn cầu và thông báo xin thổ địa, thần linh trông coi bản làng, cai quản dòng dòng, dãy núi đồng ý cho dân bản tổ chức và đón lễ trên địa bàn. Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN

Lễ đón tiếng sấm đầu năm tồn tại gần 100 năm qua, là lễ hội lớn, quan trọng, có nhiều lễ thức mang đậm sắc thái văn hóa độc đáo, đặc trưng riêng có của dân tộc Ơ Đu. Với việc công nhận này, Nghệ An hiện có 14 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Là một trong số rất ít người còn có khả năng sử dụng được ngôn ngữ Ơ Đu ở bản Văng Môn (xã Nga My, Nghệ An) già làng Lo Văn Cường cho biết: Trong tâm thức của người Ơ Đu, khi nào có tiếng sấm thì đó là thời điểm bước sang năm mới. Người Ơ Đu tổ chức lễ đón tiếng sấm để cầu mong bản làng bình yên, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, mọi người nhiều sức khỏe. Lễ đón tiếng sấm đầu năm được dân bản tổ chức ở trung tâm của bản, thu hút đông đảo mọi người tham gia và diễn ra từ 2 đến 3 ngày.

Chủ lễ (thầy cúng) cùng người dân thực hiện các bài khấn để cầu mong thần Sấm ban phát cho bản làng sự yên bình, ấm no, mọi người trong bản đoàn kết, dồi dào sức khỏe. Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN

Chủ lễ (thầy cúng) cùng người dân thực hiện các bài khấn để cầu mong thần Sấm ban phát cho bản làng sự yên bình, ấm no, mọi người trong bản đoàn kết, dồi dào sức khỏe. Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN

Anh Lo Văn Hùng, dân tộc Ơ Đu, bản Văng Môn, xã Nga My chia sẻ: Sáng sớm đầu tiên sau ngày có tiếng sấm, khi thầy cúng (thầy mo) của bản đánh chiêng thông báo việc bản làng sẽ tổ chức đón tiếng sấm thì dân bản nhanh chóng mang các vật dụng sinh hoạt hằng ngày và những quả trứng gà ra suối Nậm Ngân sau bản để chùi, rửa, kỳ cọ sạch sẽ và rửa mặt, chân tay, gội đầu để rửa trôi, rũ bỏ những đen đủi, phiền muộn của năm cũ. Những quả trứng gà được rửa sạch bằng nước mát để mong mọi sự sinh sôi, phát triển, mưa thuận gió hòa. Mọi người đi ra suối, cùng thăm hỏi, chúc nhau những điều tốt đẹp, may mắn, có sức khỏe dẻo dai để làm nương rẫy được nhiều. Mọi người đều cảm thấy vui vẻ, phấn khởi và tin tưởng sang năm mới gặp nhiều may mắn.

Sau nghi thức rửa sạch những đen đủi của năm cũ ở suối thiêng Nậm Ngân, dân bản sẽ về địa điểm tiến hành các lễ thức cúng cầu may trong ngày đầu tiên bước sang năm mới. Cúng bản là nghi thức đầu tiên trong lễ hội tiếng sấm đầu năm của dân tộc Ơ Đu. Thầy mo với vai trò chủ lễ sẽ đọc những lời khấn cầu thông báo và xin phép thổ địa, thần suối, thần rừng cho phép người dân tổ chức lễ và vui chơi trên địa bàn. Xong lễ bản kết thúc, mọi người cùng thụ lộc, uống rượu cần, chúc nhau may mắn.

Một nghi thức cầu khấn của đồng bào Ơ Đu thực hiện trong lễ đón tiếng sấm đầu năm diễn ra khá dài với sắc màu văn hóa bản địa rất độc đáo, đặc trưng. Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN

Một nghi thức cầu khấn của đồng bào Ơ Đu thực hiện trong lễ đón tiếng sấm đầu năm diễn ra khá dài với sắc màu văn hóa bản địa rất độc đáo, đặc trưng. Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN

Sau lễ cúng bản là nghi thức cúng thần sấm và cúng làm vía cho dân bản. Thầy cúng Lo Văn Cường cho biết, các lễ vật dân bản dâng cúng đều là món ăn truyền thống từ xa xưa được trao truyền từ nhiều đời của đồng bào dân tộc Ơ Đu, được bày biện trên hai chiếc mâm đan bằng mây, tre và lót lá chuối rừng để thể hiện lòng thành của dân bản với tổ tiên, thần Sấm. Các lễ vật gồm: Đầu lợn luộc, cá suối nướng, các loại thịt luộc, cơm lam màu tím, rượu trắng đựng trong ống nứa, rêu đá, chuối xanh, lạp cá, lá môn, canh măng, gà luộc, xôi nếp, moọc cá… Những món ăn này đều là của dân trong bản đóng góp để dâng cúng.

Trong quá trình diễn ra lễ cúng thần sấm và tổ tiên, thầy mo thực hiện các bài khấn nguyện để cầu mong thần sấm, tổ tiên về thụ hưởng lễ vật và ban phát cho bản làng được yên bình, ấm no, mưa thuận gió hòa, thiên nhiên tươi tốt, mọi người trong bản đoàn kết, nhiều sức khỏe, thuận lợi trong mọi việc. Đồng thời, lễ cúng cũng nhằm bày tỏ lòng tri ân đến tổ tiên, những người đã có công tạo lập, xây dựng bản làng. Sau lễ cúng, thầy mo sẽ thực hiện nghi thức làm vía, đặt tên và buộc những sợi chỉ đen vào cổ tay cho mọi người với ý nghĩa cầu mong luôn khỏe mạnh.

Sau phần lễ để đón tiếng sấm đầu năm, cộng đồng gười dân Ơ Đu bước vào phần hội với việc tổ chức các trò chơi dân gian, cùng nhảy múa, ca hát, gõ chiêng… trong không gian vui vẻ, hòa đồng, sôi động, âm thanh vang vọng khắp núi rừng, bản làng. Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN

Sau phần lễ để đón tiếng sấm đầu năm, cộng đồng gười dân Ơ Đu bước vào phần hội với việc tổ chức các trò chơi dân gian, cùng nhảy múa, ca hát, gõ chiêng… trong không gian vui vẻ, hòa đồng, sôi động, âm thanh vang vọng khắp núi rừng, bản làng. Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN

Hoàn tất các lễ cúng đón tiếng sấm đầu năm, cộng đồng người dân Ơ Đu bước vào phần hội với việc tổ chức các trò chơi dân gian, nhảy múa, ca hát, gõ chiêng, nhảy sạp… trong không gian đoàn kết, vui vẻ, hòa đồng, âm thanh sôi động vang vọng khắp núi rừng, bản làng.

Thầy cúng Lo Văn Cường, bản Văng Môn, xã Nga My, tỉnh Nghệ An cho biết, xa xưa khi dân tộc Ơ Đu còn sinh sống biệt lập trong rừng, do chưa có lịch nên tổ tiên của người Ơ Đu không biết thời điểm nào là đến năm mới. Do vậy họ lấy tiếng sấm là dấu hiệu để khởi đầu năm mới. Dịp này, dân bản tổ chức lễ đón tiếng sấm đầu năm, con cháu, anh em, họ hàng, dòng tộc làm ăn xa quê đều về đông đủ để nhớ về cội nguồn.

Hiện nay, dân tộc Ơ Đu là một trong 5 dân tộc ít người nhất trên cả nước, tập trung sinh sống ở bản Văng Môn, xã Nga My (Nghệ An) với hơn 100 hộ, gần 350 nhân khẩu. Những năm qua, được sự quan tâm của Nhà nước, các cấp chính quyền nên đời sống văn hóa, tinh thần, thiết chế văn hóa của bà con dân tộc Ơ Đu ngày càng nâng lên rõ rệt. Đặc biệt, bà con Ơ Đu luôn có ý thức gìn giữ phát huy giá trị bản sắc văn hóa, đặc trưng về phong tục văn hóa, tín ngưỡng của cộng đồng dân tộc.

Người dân Ơ Đu tổ chức vòng xòe để vui chơi, nhảy múa trong lễ đón tiếng sấm đầu năm, thắt chặt tình đoàn kết cộng đồng. Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN

Người dân Ơ Đu tổ chức vòng xòe để vui chơi, nhảy múa trong lễ đón tiếng sấm đầu năm, thắt chặt tình đoàn kết cộng đồng. Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN

Đến nay, Nghệ An đã có 14 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Trong số đó có Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh (được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2012) được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào tháng 11/2014. Những di sản này đều có giá trị đặc biệt về mặt lịch sử, nhân văn và nghệ thuật, góp phần làm giàu kho tàng văn hóa truyền thống của xứ Nghệ, đồng thời khẳng định bản sắc văn hóa vùng miền trong bức tranh đa dạng của văn hóa Việt Nam. Các di sản sẽ tạo điều kiện để địa phương bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa độc đáo của các dân tộc trên địa bàn gắn với phát triển du lịch bền vững./.

Dân tộc Ơ Đu

Tên tự gọi: Ơ Ðu hoặc I Ðu.

Tên gọi khác: Tày Hạt (người đói rách).

Dân số: 376 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á). Nay chỉ còn tiếng mẹ đẻ. Hầu hết người Ơ Ðu dùng các tiếng Khơ Mú, Thái làm công cụ giao tiếp hàng ngày.

Lịch sử: Xưa kia người Ơ Ðu cư trú suốt một vùng dọc theo hai con sông Nặm Mộ và Nặm Nơn. Nhưng tập trung nhất vẫn là dọc sông Nặm Nơn. Do nhiều biến cố trong lịch sử liên tiếp xảy ra ở vùng này buộc họ phải rời đi nơi khác hay sống hoà lẫn với các cư dân mới đến. Hiện người Ơ Ðu ở hai bản đông nhất là Xốp Pột và Kim Hoà, xã Kim Ða huyện Tương Dương, Nghệ An. Ở Lào họ hợp với nhóm Tày Phoọng cư trú ở tỉnh Sầm Nưa.

Hoạt động sản xuất: Người Ơ Ðu sinh sống chủ yếu bằng nương rẫy và một phần ruộng nước. Mỗi năm họ chỉ làm một vụ: phát, đốt, gieo hạt từ các tháng 4-5 âm lịch, thu hoạch vào các tháng 9-10. Công cụ làm rẫy gồm rìu, dao, gậy chọc lỗ. Ngoài lúa là giống cây trồng chính, còn trồng sắn, bầu, bí, ngô, ý dĩ, đỗ, hái lượm và săn bắn vẫn có vị trí quan trọng trong đời sống. Chăn nuôi trâu bò, lợn gà, dê khá phát triển. Trâu, bò dùng làm sức kéo, kéo cày, lợn gà sử dụng trong các dịp cưới, nghi lễ tín ngưỡng, cúng ma... Ðan lát đồ gia dụng bằng giang, mây, một phần tiêu dùng, phần để trao đổi. Xưa họ còn biết dệt vải.

Ăn: Người Ơ Ðu thường ăn 1 bữa phụ (sáng), 2 bữa chính (trưa và tối). Trước đây họ ăn xôi đồ, nay có cả cơm gạo tẻ, khi mất mùa ăn củ nâu, củ mài, hoặc sắn, ngô thay cơm. Họ thích uống rượu, hút thuốc lào.

Mặc: Hiện nay, nam và nữ đều ăn mặc theo kiểu người Thái, Việt trong vùng. Những bộ trang phục cổ truyền còn rất ít.

: Trước đây, ngôi nhà truyền thống, nhà sàn, phải dựng quay đầu vào núi (dựng chiều dọc). Khi dựng cột phải tuân theo một thứ tự nhất định. Nay kiểu nhà này không còn nữa. Họ ở sàn nhà giống như nhà sàn người Thái.

Phương tiện vận chuyển: Phổ biến hơn cả là gùi dây đeo bên trán. Gùi rất đẹp, bền chắc.

Quan hệ xã hội: Do số lượng dân số ít, sống xen kẽ với người Khơ Mú và Thái cho nên các mặt quan hệ xã hội văn hóa của họ chịu nhiều ảnh hưởng hai dân tộc này. Người Ơ Ðu lấy họ theo họ Thái, Lào. Tổ chức dòng họ rất mờ nhạt. Trưởng họ là người có uy tín, được kính trọng và có vai trò lớn trong dòng họ.

Gia đình người Ơ Ðu là gia đình nhỏ phụ quyền. Ðàn ông quyết định tất thẩy các công việc trong nhà. Phụ nữ không được hưởng thừa tự. Họ phổ biến tục ở rể. Lễ vật trong dịp cưới không thể thiếu là thịt sóc, thịt chuột sấy khô và cá ướp muối.

Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ ngồi tại góc nhà phía gian dành cho phụ nữ. Nhau trẻ bỏ vào ống tre đem chôn ngay dưới gầm sàn. Tuổi đứa con được tính từ ngày có tiếng sấm trong năm. Khi đó đứa bé được coi là đầy năm và được bố mẹ làm lễ đặt tên.

Thờ cúng: Người Ơ Ðu tin rằng khi người chết, hồn biến thành ma. Hồn thân thể ngụ tại bãi tha ma, hồn gốc ở chỏm tóc ở lại làm ma nhà. Ma nhà chỉ ở với con cháu một đời theo thứ tự từ con trai cả đến con trai thứ. Khi các con trai đã chết hết, người ta làm lễ tiễn ma nhà về với tổ tiên. Nơi thờ ma nhà tại góc hồi của gian thứ hai. Bàn thờ đơn giản, treo cao sát mái nhà.

Lễ tết: Người Ơ Ðu ăn tết Nguyên đán, tết cơm mới. Ngày hội lớn nhất là lễ đón tiếng sấm trong năm. Ngày đó, cư dân khắp nơi đổ về mở hội tế trời, mổ trâu, bò, lợn ăn mừng tại bản Xốp Pột, xã Kim Ða, Tương Dương, Nghệ An.

Văn nghệ: Người Ơ Ðu sử dụng thành thạo các loại nhạc cụ của người Khơ Mú, Thái như: sáo, khèn, chiêng, trống; thuộc các làn điệu dân ca Khơ Mú, Thái, kể chuyện dã sử.

Chơi: Người Ơ Ðu có vai trò chơi đánh khăng, chơi quay, ném còn, ô ăn quan.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Ơ Đu

Có thể bạn quan tâm

Sắc màu văn hoá của đồng bào Chăm

Sắc màu văn hoá của đồng bào Chăm

Không gian văn hóa đền tháp của đồng bào Chăm tỉnh Khánh Hòa là điểm nhấn đặc sắc nằm trong chuỗi các hoạt động của Tuần “Đại đoàn kết các dân tộc - Di sản Văn hóa Việt Nam” (18 - 24/11/2025) đang được giới thiệu tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Sơn Tây, Hà Nội).

Sắc màu dân tộc thiểu số ở Bắc Ninh

Sắc màu dân tộc thiểu số ở Bắc Ninh

Tỉnh Bắc Ninh có trên 39 vạn người đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống (chiếm 11,02% dân số toàn tỉnh) với nhiều thành phần dân tộc, trong đó có 7 thành phần dân tộc thiểu số chủ yếu gồm: Nùng, Tày, Sán Dìu, Hoa, Cao Lan, Sán Chí, Dao (chiếm 97,78% tổng số người dân tộc thiểu số). Mỗi dân tộc có trang phục, tập quán riêng tạo sự khác biệt và đa dạng văn hóa cho vùng đất này.

Quảng bá thương hiệu trà Shan tuyết

Quảng bá thương hiệu trà Shan tuyết

Ngày 5/11, tại Nhà văn hóa Trung tâm, phường An Tường (Tuyên Quang), Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tuyên Quang tổ chức Hội thi sản phẩm trà Shan tuyết và kỹ thuật pha chế trà năm 2025.

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Hằng năm, vào ngày Mão tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân xã Đông Cuông, tỉnh Lào Cai rộn ràng tổ chức Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông. Đây là hoạt động truyền thống nhằm tổng kết một năm lao động, sản xuất, những người con quê hương, du khách bày tỏ lòng tri ân với Mẫu Thượng Ngàn, các đấng siêu nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Sáng 23/10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên tổ chức Khai mạc Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh, năm 2025. Sự kiện là hoạt động thiết thực nhằm chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025 - 2030; hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/1945 - 23/11/2025) và 80 năm Ngày Thể thao Việt Nam (27/3/1946 - 27/3/2026).

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Giữa nhịp sống hiện đại đang lan tỏa tới từng bản làng vùng cao, người Dao Tiền ở Bản Sưng, xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình cũ, nay thuộc tỉnh Phú Thọ) vẫn bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có nghi lễ cưới, một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, tín ngưỡng và đạo lý của cộng đồng.

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Chiều 20/10/2025, khoảnh khắc thiêng liêng và xúc động nhất trước thềm lễ hội Katê chính là khi cộng đồng người Chăm làng Hữu Đức (Phước Hữu, Khánh Hòa) trang trọng đón nhận y trang từ người anh em Raglai. Đây không chỉ là một nghi lễ, mà còn là một minh chứng sống động cho mối giao hảo bền chặt, độc đáo đã được trao truyền qua nhiều thế hệ trên mảnh đất đầy nắng và gió. 

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Những ngày này, từ các tuyến phố trung tâm cho đến tận các thôn bản nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Tuyên Quang đều rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ, băng rôn chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là kỳ Đại hội đầu tiên sau khi hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, là sự kiện chính trị trọng đại, thể hiện ý chí, niềm tin và khát vọng của gần 1,9 triệu đồng bào các dân tộc trong tỉnh cùng hướng tới tương lai.

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer tỉnh Cà Mau hiện có trên 32 nghìn hộ với gần 140 nghìn nhân khẩu, chiếm gần 6,5% dân số toàn tỉnh. Những ngày này, tại các địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, không khí chào đón lễ Sene Dolta, một trong những lễ hội truyền thống quan trọng và mang đậm bản sắc văn hóa của người Khmer, diễn ra rộn ràng. 

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Tại miền đất Quảng Ngãi, các làn điệu dân ca H’rê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc. Để những giai điệu này không bị lãng quên, vai trò của người phụ nữ dân tộc H’rê vô cùng to lớn. Họ là những nghệ nhân thầm lặng, miệt mài gìn giữ và lan tỏa tình yêu với âm nhạc truyền thống, biến những lời ca thành sợi dây kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ và hiện tại.

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Trong không gian bảng lảng khói sương của núi rừng, của bản làng, bên những ngôi nhà sàn gỗ, những mế (phụ nữ lớn tuổi), ẻm (cô gái trẻ) trong trang phục áo pắn (áo ngắn), váy dài quấn kết hợp với cạp váy dệt hoa văn tinh xảo, đeo tênh (thắt lưng), xà tích và vấn khăn trắng trên đầu. Tiếng chiêng mường vang vọng cùng lời mo rì rầm đưa con người về lại với cội nguồn, về với những giá trị cốt lõi từ ngàn xưa… Đó là văn hóa Mường, là di sản, kho báu tinh thần của cộng đồng người Mường Hòa Bình cũ, nay là tỉnh Phú Thọ.