Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có quyết định số 2192/QĐ-BVHTTDL về việc công nhận “Lễ đón tiếng sấm đầu năm của dân tộc Ơ Đu ở xã Nga My-Nghệ An” là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, thuộc loại hình tập quán xã hội và tín ngưỡng.

Lễ đón tiếng sấm đầu năm tồn tại gần 100 năm qua, là lễ hội lớn, quan trọng, có nhiều lễ thức mang đậm sắc thái văn hóa độc đáo, đặc trưng riêng có của dân tộc Ơ Đu. Với việc công nhận này, Nghệ An hiện có 14 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Là một trong số rất ít người còn có khả năng sử dụng được ngôn ngữ Ơ Đu ở bản Văng Môn (xã Nga My, Nghệ An) già làng Lo Văn Cường cho biết: Trong tâm thức của người Ơ Đu, khi nào có tiếng sấm thì đó là thời điểm bước sang năm mới. Người Ơ Đu tổ chức lễ đón tiếng sấm để cầu mong bản làng bình yên, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, mọi người nhiều sức khỏe. Lễ đón tiếng sấm đầu năm được dân bản tổ chức ở trung tâm của bản, thu hút đông đảo mọi người tham gia và diễn ra từ 2 đến 3 ngày.

Chủ lễ (thầy cúng) cùng người dân thực hiện các bài khấn để cầu mong thần Sấm ban phát cho bản làng sự yên bình, ấm no, mọi người trong bản đoàn kết, dồi dào sức khỏe. Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN
Anh Lo Văn Hùng, dân tộc Ơ Đu, bản Văng Môn, xã Nga My chia sẻ: Sáng sớm đầu tiên sau ngày có tiếng sấm, khi thầy cúng (thầy mo) của bản đánh chiêng thông báo việc bản làng sẽ tổ chức đón tiếng sấm thì dân bản nhanh chóng mang các vật dụng sinh hoạt hằng ngày và những quả trứng gà ra suối Nậm Ngân sau bản để chùi, rửa, kỳ cọ sạch sẽ và rửa mặt, chân tay, gội đầu để rửa trôi, rũ bỏ những đen đủi, phiền muộn của năm cũ. Những quả trứng gà được rửa sạch bằng nước mát để mong mọi sự sinh sôi, phát triển, mưa thuận gió hòa. Mọi người đi ra suối, cùng thăm hỏi, chúc nhau những điều tốt đẹp, may mắn, có sức khỏe dẻo dai để làm nương rẫy được nhiều. Mọi người đều cảm thấy vui vẻ, phấn khởi và tin tưởng sang năm mới gặp nhiều may mắn.
Sau nghi thức rửa sạch những đen đủi của năm cũ ở suối thiêng Nậm Ngân, dân bản sẽ về địa điểm tiến hành các lễ thức cúng cầu may trong ngày đầu tiên bước sang năm mới. Cúng bản là nghi thức đầu tiên trong lễ hội tiếng sấm đầu năm của dân tộc Ơ Đu. Thầy mo với vai trò chủ lễ sẽ đọc những lời khấn cầu thông báo và xin phép thổ địa, thần suối, thần rừng cho phép người dân tổ chức lễ và vui chơi trên địa bàn. Xong lễ bản kết thúc, mọi người cùng thụ lộc, uống rượu cần, chúc nhau may mắn.

Một nghi thức cầu khấn của đồng bào Ơ Đu thực hiện trong lễ đón tiếng sấm đầu năm diễn ra khá dài với sắc màu văn hóa bản địa rất độc đáo, đặc trưng. Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN
Sau lễ cúng bản là nghi thức cúng thần sấm và cúng làm vía cho dân bản. Thầy cúng Lo Văn Cường cho biết, các lễ vật dân bản dâng cúng đều là món ăn truyền thống từ xa xưa được trao truyền từ nhiều đời của đồng bào dân tộc Ơ Đu, được bày biện trên hai chiếc mâm đan bằng mây, tre và lót lá chuối rừng để thể hiện lòng thành của dân bản với tổ tiên, thần Sấm. Các lễ vật gồm: Đầu lợn luộc, cá suối nướng, các loại thịt luộc, cơm lam màu tím, rượu trắng đựng trong ống nứa, rêu đá, chuối xanh, lạp cá, lá môn, canh măng, gà luộc, xôi nếp, moọc cá… Những món ăn này đều là của dân trong bản đóng góp để dâng cúng.
Trong quá trình diễn ra lễ cúng thần sấm và tổ tiên, thầy mo thực hiện các bài khấn nguyện để cầu mong thần sấm, tổ tiên về thụ hưởng lễ vật và ban phát cho bản làng được yên bình, ấm no, mưa thuận gió hòa, thiên nhiên tươi tốt, mọi người trong bản đoàn kết, nhiều sức khỏe, thuận lợi trong mọi việc. Đồng thời, lễ cúng cũng nhằm bày tỏ lòng tri ân đến tổ tiên, những người đã có công tạo lập, xây dựng bản làng. Sau lễ cúng, thầy mo sẽ thực hiện nghi thức làm vía, đặt tên và buộc những sợi chỉ đen vào cổ tay cho mọi người với ý nghĩa cầu mong luôn khỏe mạnh.

Sau phần lễ để đón tiếng sấm đầu năm, cộng đồng gười dân Ơ Đu bước vào phần hội với việc tổ chức các trò chơi dân gian, cùng nhảy múa, ca hát, gõ chiêng… trong không gian vui vẻ, hòa đồng, sôi động, âm thanh vang vọng khắp núi rừng, bản làng. Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN
Hoàn tất các lễ cúng đón tiếng sấm đầu năm, cộng đồng người dân Ơ Đu bước vào phần hội với việc tổ chức các trò chơi dân gian, nhảy múa, ca hát, gõ chiêng, nhảy sạp… trong không gian đoàn kết, vui vẻ, hòa đồng, âm thanh sôi động vang vọng khắp núi rừng, bản làng.
Thầy cúng Lo Văn Cường, bản Văng Môn, xã Nga My, tỉnh Nghệ An cho biết, xa xưa khi dân tộc Ơ Đu còn sinh sống biệt lập trong rừng, do chưa có lịch nên tổ tiên của người Ơ Đu không biết thời điểm nào là đến năm mới. Do vậy họ lấy tiếng sấm là dấu hiệu để khởi đầu năm mới. Dịp này, dân bản tổ chức lễ đón tiếng sấm đầu năm, con cháu, anh em, họ hàng, dòng tộc làm ăn xa quê đều về đông đủ để nhớ về cội nguồn.
Hiện nay, dân tộc Ơ Đu là một trong 5 dân tộc ít người nhất trên cả nước, tập trung sinh sống ở bản Văng Môn, xã Nga My (Nghệ An) với hơn 100 hộ, gần 350 nhân khẩu. Những năm qua, được sự quan tâm của Nhà nước, các cấp chính quyền nên đời sống văn hóa, tinh thần, thiết chế văn hóa của bà con dân tộc Ơ Đu ngày càng nâng lên rõ rệt. Đặc biệt, bà con Ơ Đu luôn có ý thức gìn giữ phát huy giá trị bản sắc văn hóa, đặc trưng về phong tục văn hóa, tín ngưỡng của cộng đồng dân tộc.

Người dân Ơ Đu tổ chức vòng xòe để vui chơi, nhảy múa trong lễ đón tiếng sấm đầu năm, thắt chặt tình đoàn kết cộng đồng. Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN
Đến nay, Nghệ An đã có 14 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Trong số đó có Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh (được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2012) được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào tháng 11/2014. Những di sản này đều có giá trị đặc biệt về mặt lịch sử, nhân văn và nghệ thuật, góp phần làm giàu kho tàng văn hóa truyền thống của xứ Nghệ, đồng thời khẳng định bản sắc văn hóa vùng miền trong bức tranh đa dạng của văn hóa Việt Nam. Các di sản sẽ tạo điều kiện để địa phương bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa độc đáo của các dân tộc trên địa bàn gắn với phát triển du lịch bền vững./.
Tên tự gọi: Ơ Ðu hoặc I Ðu.
Tên gọi khác: Tày Hạt (người đói rách).
Dân số: 376 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á). Nay chỉ còn tiếng mẹ đẻ. Hầu hết người Ơ Ðu dùng các tiếng Khơ Mú, Thái làm công cụ giao tiếp hàng ngày.
Lịch sử: Xưa kia người Ơ Ðu cư trú suốt một vùng dọc theo hai con sông Nặm Mộ và Nặm Nơn. Nhưng tập trung nhất vẫn là dọc sông Nặm Nơn. Do nhiều biến cố trong lịch sử liên tiếp xảy ra ở vùng này buộc họ phải rời đi nơi khác hay sống hoà lẫn với các cư dân mới đến. Hiện người Ơ Ðu ở hai bản đông nhất là Xốp Pột và Kim Hoà, xã Kim Ða huyện Tương Dương, Nghệ An. Ở Lào họ hợp với nhóm Tày Phoọng cư trú ở tỉnh Sầm Nưa.
Hoạt động sản xuất: Người Ơ Ðu sinh sống chủ yếu bằng nương rẫy và một phần ruộng nước. Mỗi năm họ chỉ làm một vụ: phát, đốt, gieo hạt từ các tháng 4-5 âm lịch, thu hoạch vào các tháng 9-10. Công cụ làm rẫy gồm rìu, dao, gậy chọc lỗ. Ngoài lúa là giống cây trồng chính, còn trồng sắn, bầu, bí, ngô, ý dĩ, đỗ, hái lượm và săn bắn vẫn có vị trí quan trọng trong đời sống. Chăn nuôi trâu bò, lợn gà, dê khá phát triển. Trâu, bò dùng làm sức kéo, kéo cày, lợn gà sử dụng trong các dịp cưới, nghi lễ tín ngưỡng, cúng ma... Ðan lát đồ gia dụng bằng giang, mây, một phần tiêu dùng, phần để trao đổi. Xưa họ còn biết dệt vải.
Ăn: Người Ơ Ðu thường ăn 1 bữa phụ (sáng), 2 bữa chính (trưa và tối). Trước đây họ ăn xôi đồ, nay có cả cơm gạo tẻ, khi mất mùa ăn củ nâu, củ mài, hoặc sắn, ngô thay cơm. Họ thích uống rượu, hút thuốc lào.
Mặc: Hiện nay, nam và nữ đều ăn mặc theo kiểu người Thái, Việt trong vùng. Những bộ trang phục cổ truyền còn rất ít.
Ở: Trước đây, ngôi nhà truyền thống, nhà sàn, phải dựng quay đầu vào núi (dựng chiều dọc). Khi dựng cột phải tuân theo một thứ tự nhất định. Nay kiểu nhà này không còn nữa. Họ ở sàn nhà giống như nhà sàn người Thái.
Phương tiện vận chuyển: Phổ biến hơn cả là gùi dây đeo bên trán. Gùi rất đẹp, bền chắc.
Quan hệ xã hội: Do số lượng dân số ít, sống xen kẽ với người Khơ Mú và Thái cho nên các mặt quan hệ xã hội văn hóa của họ chịu nhiều ảnh hưởng hai dân tộc này. Người Ơ Ðu lấy họ theo họ Thái, Lào. Tổ chức dòng họ rất mờ nhạt. Trưởng họ là người có uy tín, được kính trọng và có vai trò lớn trong dòng họ.
Gia đình người Ơ Ðu là gia đình nhỏ phụ quyền. Ðàn ông quyết định tất thẩy các công việc trong nhà. Phụ nữ không được hưởng thừa tự. Họ phổ biến tục ở rể. Lễ vật trong dịp cưới không thể thiếu là thịt sóc, thịt chuột sấy khô và cá ướp muối.
Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ ngồi tại góc nhà phía gian dành cho phụ nữ. Nhau trẻ bỏ vào ống tre đem chôn ngay dưới gầm sàn. Tuổi đứa con được tính từ ngày có tiếng sấm trong năm. Khi đó đứa bé được coi là đầy năm và được bố mẹ làm lễ đặt tên.
Thờ cúng: Người Ơ Ðu tin rằng khi người chết, hồn biến thành ma. Hồn thân thể ngụ tại bãi tha ma, hồn gốc ở chỏm tóc ở lại làm ma nhà. Ma nhà chỉ ở với con cháu một đời theo thứ tự từ con trai cả đến con trai thứ. Khi các con trai đã chết hết, người ta làm lễ tiễn ma nhà về với tổ tiên. Nơi thờ ma nhà tại góc hồi của gian thứ hai. Bàn thờ đơn giản, treo cao sát mái nhà.
Lễ tết: Người Ơ Ðu ăn tết Nguyên đán, tết cơm mới. Ngày hội lớn nhất là lễ đón tiếng sấm trong năm. Ngày đó, cư dân khắp nơi đổ về mở hội tế trời, mổ trâu, bò, lợn ăn mừng tại bản Xốp Pột, xã Kim Ða, Tương Dương, Nghệ An.
Văn nghệ: Người Ơ Ðu sử dụng thành thạo các loại nhạc cụ của người Khơ Mú, Thái như: sáo, khèn, chiêng, trống; thuộc các làn điệu dân ca Khơ Mú, Thái, kể chuyện dã sử.
Chơi: Người Ơ Ðu có vai trò chơi đánh khăng, chơi quay, ném còn, ô ăn quan.
Theo cema.gov.vn
