Gìn giữ đặc trưng phong tục văn hóa, tín ngưỡng của cộng đồng dân tộc Ơ Đu

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có quyết định số 2192/QĐ-BVHTTDL về việc công nhận “Lễ đón tiếng sấm đầu năm của dân tộc Ơ Đu ở xã Nga My-Nghệ An” là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, thuộc loại hình tập quán xã hội và tín ngưỡng.

tieng-sam-060725-2.jpg
Mở đầu cho lễ đón tiếng sấm đầu năm là nghi thức cúng bản. Đây là nghi thức rất quan trọng để thầy mo, các vị già làng, trưởng bản, người có uy tín sẽ khấn cầu và thông báo xin thổ địa, thần linh trông coi bản làng, cai quản dòng dòng, dãy núi đồng ý cho dân bản tổ chức và đón lễ trên địa bàn. Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN

Lễ đón tiếng sấm đầu năm tồn tại gần 100 năm qua, là lễ hội lớn, quan trọng, có nhiều lễ thức mang đậm sắc thái văn hóa độc đáo, đặc trưng riêng có của dân tộc Ơ Đu. Với việc công nhận này, Nghệ An hiện có 14 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Là một trong số rất ít người còn có khả năng sử dụng được ngôn ngữ Ơ Đu ở bản Văng Môn (xã Nga My, Nghệ An) già làng Lo Văn Cường cho biết: Trong tâm thức của người Ơ Đu, khi nào có tiếng sấm thì đó là thời điểm bước sang năm mới. Người Ơ Đu tổ chức lễ đón tiếng sấm để cầu mong bản làng bình yên, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, mọi người nhiều sức khỏe. Lễ đón tiếng sấm đầu năm được dân bản tổ chức ở trung tâm của bản, thu hút đông đảo mọi người tham gia và diễn ra từ 2 đến 3 ngày.

Chủ lễ (thầy cúng) cùng người dân thực hiện các bài khấn để cầu mong thần Sấm ban phát cho bản làng sự yên bình, ấm no, mọi người trong bản đoàn kết, dồi dào sức khỏe. Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN

Chủ lễ (thầy cúng) cùng người dân thực hiện các bài khấn để cầu mong thần Sấm ban phát cho bản làng sự yên bình, ấm no, mọi người trong bản đoàn kết, dồi dào sức khỏe. Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN

Anh Lo Văn Hùng, dân tộc Ơ Đu, bản Văng Môn, xã Nga My chia sẻ: Sáng sớm đầu tiên sau ngày có tiếng sấm, khi thầy cúng (thầy mo) của bản đánh chiêng thông báo việc bản làng sẽ tổ chức đón tiếng sấm thì dân bản nhanh chóng mang các vật dụng sinh hoạt hằng ngày và những quả trứng gà ra suối Nậm Ngân sau bản để chùi, rửa, kỳ cọ sạch sẽ và rửa mặt, chân tay, gội đầu để rửa trôi, rũ bỏ những đen đủi, phiền muộn của năm cũ. Những quả trứng gà được rửa sạch bằng nước mát để mong mọi sự sinh sôi, phát triển, mưa thuận gió hòa. Mọi người đi ra suối, cùng thăm hỏi, chúc nhau những điều tốt đẹp, may mắn, có sức khỏe dẻo dai để làm nương rẫy được nhiều. Mọi người đều cảm thấy vui vẻ, phấn khởi và tin tưởng sang năm mới gặp nhiều may mắn.

Sau nghi thức rửa sạch những đen đủi của năm cũ ở suối thiêng Nậm Ngân, dân bản sẽ về địa điểm tiến hành các lễ thức cúng cầu may trong ngày đầu tiên bước sang năm mới. Cúng bản là nghi thức đầu tiên trong lễ hội tiếng sấm đầu năm của dân tộc Ơ Đu. Thầy mo với vai trò chủ lễ sẽ đọc những lời khấn cầu thông báo và xin phép thổ địa, thần suối, thần rừng cho phép người dân tổ chức lễ và vui chơi trên địa bàn. Xong lễ bản kết thúc, mọi người cùng thụ lộc, uống rượu cần, chúc nhau may mắn.

Một nghi thức cầu khấn của đồng bào Ơ Đu thực hiện trong lễ đón tiếng sấm đầu năm diễn ra khá dài với sắc màu văn hóa bản địa rất độc đáo, đặc trưng. Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN

Một nghi thức cầu khấn của đồng bào Ơ Đu thực hiện trong lễ đón tiếng sấm đầu năm diễn ra khá dài với sắc màu văn hóa bản địa rất độc đáo, đặc trưng. Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN

Sau lễ cúng bản là nghi thức cúng thần sấm và cúng làm vía cho dân bản. Thầy cúng Lo Văn Cường cho biết, các lễ vật dân bản dâng cúng đều là món ăn truyền thống từ xa xưa được trao truyền từ nhiều đời của đồng bào dân tộc Ơ Đu, được bày biện trên hai chiếc mâm đan bằng mây, tre và lót lá chuối rừng để thể hiện lòng thành của dân bản với tổ tiên, thần Sấm. Các lễ vật gồm: Đầu lợn luộc, cá suối nướng, các loại thịt luộc, cơm lam màu tím, rượu trắng đựng trong ống nứa, rêu đá, chuối xanh, lạp cá, lá môn, canh măng, gà luộc, xôi nếp, moọc cá… Những món ăn này đều là của dân trong bản đóng góp để dâng cúng.

Trong quá trình diễn ra lễ cúng thần sấm và tổ tiên, thầy mo thực hiện các bài khấn nguyện để cầu mong thần sấm, tổ tiên về thụ hưởng lễ vật và ban phát cho bản làng được yên bình, ấm no, mưa thuận gió hòa, thiên nhiên tươi tốt, mọi người trong bản đoàn kết, nhiều sức khỏe, thuận lợi trong mọi việc. Đồng thời, lễ cúng cũng nhằm bày tỏ lòng tri ân đến tổ tiên, những người đã có công tạo lập, xây dựng bản làng. Sau lễ cúng, thầy mo sẽ thực hiện nghi thức làm vía, đặt tên và buộc những sợi chỉ đen vào cổ tay cho mọi người với ý nghĩa cầu mong luôn khỏe mạnh.

Sau phần lễ để đón tiếng sấm đầu năm, cộng đồng gười dân Ơ Đu bước vào phần hội với việc tổ chức các trò chơi dân gian, cùng nhảy múa, ca hát, gõ chiêng… trong không gian vui vẻ, hòa đồng, sôi động, âm thanh vang vọng khắp núi rừng, bản làng. Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN

Sau phần lễ để đón tiếng sấm đầu năm, cộng đồng gười dân Ơ Đu bước vào phần hội với việc tổ chức các trò chơi dân gian, cùng nhảy múa, ca hát, gõ chiêng… trong không gian vui vẻ, hòa đồng, sôi động, âm thanh vang vọng khắp núi rừng, bản làng. Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN

Hoàn tất các lễ cúng đón tiếng sấm đầu năm, cộng đồng người dân Ơ Đu bước vào phần hội với việc tổ chức các trò chơi dân gian, nhảy múa, ca hát, gõ chiêng, nhảy sạp… trong không gian đoàn kết, vui vẻ, hòa đồng, âm thanh sôi động vang vọng khắp núi rừng, bản làng.

Thầy cúng Lo Văn Cường, bản Văng Môn, xã Nga My, tỉnh Nghệ An cho biết, xa xưa khi dân tộc Ơ Đu còn sinh sống biệt lập trong rừng, do chưa có lịch nên tổ tiên của người Ơ Đu không biết thời điểm nào là đến năm mới. Do vậy họ lấy tiếng sấm là dấu hiệu để khởi đầu năm mới. Dịp này, dân bản tổ chức lễ đón tiếng sấm đầu năm, con cháu, anh em, họ hàng, dòng tộc làm ăn xa quê đều về đông đủ để nhớ về cội nguồn.

Hiện nay, dân tộc Ơ Đu là một trong 5 dân tộc ít người nhất trên cả nước, tập trung sinh sống ở bản Văng Môn, xã Nga My (Nghệ An) với hơn 100 hộ, gần 350 nhân khẩu. Những năm qua, được sự quan tâm của Nhà nước, các cấp chính quyền nên đời sống văn hóa, tinh thần, thiết chế văn hóa của bà con dân tộc Ơ Đu ngày càng nâng lên rõ rệt. Đặc biệt, bà con Ơ Đu luôn có ý thức gìn giữ phát huy giá trị bản sắc văn hóa, đặc trưng về phong tục văn hóa, tín ngưỡng của cộng đồng dân tộc.

Người dân Ơ Đu tổ chức vòng xòe để vui chơi, nhảy múa trong lễ đón tiếng sấm đầu năm, thắt chặt tình đoàn kết cộng đồng. Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN

Người dân Ơ Đu tổ chức vòng xòe để vui chơi, nhảy múa trong lễ đón tiếng sấm đầu năm, thắt chặt tình đoàn kết cộng đồng. Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN

Đến nay, Nghệ An đã có 14 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Trong số đó có Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh (được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2012) được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào tháng 11/2014. Những di sản này đều có giá trị đặc biệt về mặt lịch sử, nhân văn và nghệ thuật, góp phần làm giàu kho tàng văn hóa truyền thống của xứ Nghệ, đồng thời khẳng định bản sắc văn hóa vùng miền trong bức tranh đa dạng của văn hóa Việt Nam. Các di sản sẽ tạo điều kiện để địa phương bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa độc đáo của các dân tộc trên địa bàn gắn với phát triển du lịch bền vững./.

Dân tộc Ơ Đu

Tên tự gọi: Ơ Ðu hoặc I Ðu.

Tên gọi khác: Tày Hạt (người đói rách).

Dân số: 376 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á). Nay chỉ còn tiếng mẹ đẻ. Hầu hết người Ơ Ðu dùng các tiếng Khơ Mú, Thái làm công cụ giao tiếp hàng ngày.

Lịch sử: Xưa kia người Ơ Ðu cư trú suốt một vùng dọc theo hai con sông Nặm Mộ và Nặm Nơn. Nhưng tập trung nhất vẫn là dọc sông Nặm Nơn. Do nhiều biến cố trong lịch sử liên tiếp xảy ra ở vùng này buộc họ phải rời đi nơi khác hay sống hoà lẫn với các cư dân mới đến. Hiện người Ơ Ðu ở hai bản đông nhất là Xốp Pột và Kim Hoà, xã Kim Ða huyện Tương Dương, Nghệ An. Ở Lào họ hợp với nhóm Tày Phoọng cư trú ở tỉnh Sầm Nưa.

Hoạt động sản xuất: Người Ơ Ðu sinh sống chủ yếu bằng nương rẫy và một phần ruộng nước. Mỗi năm họ chỉ làm một vụ: phát, đốt, gieo hạt từ các tháng 4-5 âm lịch, thu hoạch vào các tháng 9-10. Công cụ làm rẫy gồm rìu, dao, gậy chọc lỗ. Ngoài lúa là giống cây trồng chính, còn trồng sắn, bầu, bí, ngô, ý dĩ, đỗ, hái lượm và săn bắn vẫn có vị trí quan trọng trong đời sống. Chăn nuôi trâu bò, lợn gà, dê khá phát triển. Trâu, bò dùng làm sức kéo, kéo cày, lợn gà sử dụng trong các dịp cưới, nghi lễ tín ngưỡng, cúng ma... Ðan lát đồ gia dụng bằng giang, mây, một phần tiêu dùng, phần để trao đổi. Xưa họ còn biết dệt vải.

Ăn: Người Ơ Ðu thường ăn 1 bữa phụ (sáng), 2 bữa chính (trưa và tối). Trước đây họ ăn xôi đồ, nay có cả cơm gạo tẻ, khi mất mùa ăn củ nâu, củ mài, hoặc sắn, ngô thay cơm. Họ thích uống rượu, hút thuốc lào.

Mặc: Hiện nay, nam và nữ đều ăn mặc theo kiểu người Thái, Việt trong vùng. Những bộ trang phục cổ truyền còn rất ít.

: Trước đây, ngôi nhà truyền thống, nhà sàn, phải dựng quay đầu vào núi (dựng chiều dọc). Khi dựng cột phải tuân theo một thứ tự nhất định. Nay kiểu nhà này không còn nữa. Họ ở sàn nhà giống như nhà sàn người Thái.

Phương tiện vận chuyển: Phổ biến hơn cả là gùi dây đeo bên trán. Gùi rất đẹp, bền chắc.

Quan hệ xã hội: Do số lượng dân số ít, sống xen kẽ với người Khơ Mú và Thái cho nên các mặt quan hệ xã hội văn hóa của họ chịu nhiều ảnh hưởng hai dân tộc này. Người Ơ Ðu lấy họ theo họ Thái, Lào. Tổ chức dòng họ rất mờ nhạt. Trưởng họ là người có uy tín, được kính trọng và có vai trò lớn trong dòng họ.

Gia đình người Ơ Ðu là gia đình nhỏ phụ quyền. Ðàn ông quyết định tất thẩy các công việc trong nhà. Phụ nữ không được hưởng thừa tự. Họ phổ biến tục ở rể. Lễ vật trong dịp cưới không thể thiếu là thịt sóc, thịt chuột sấy khô và cá ướp muối.

Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ ngồi tại góc nhà phía gian dành cho phụ nữ. Nhau trẻ bỏ vào ống tre đem chôn ngay dưới gầm sàn. Tuổi đứa con được tính từ ngày có tiếng sấm trong năm. Khi đó đứa bé được coi là đầy năm và được bố mẹ làm lễ đặt tên.

Thờ cúng: Người Ơ Ðu tin rằng khi người chết, hồn biến thành ma. Hồn thân thể ngụ tại bãi tha ma, hồn gốc ở chỏm tóc ở lại làm ma nhà. Ma nhà chỉ ở với con cháu một đời theo thứ tự từ con trai cả đến con trai thứ. Khi các con trai đã chết hết, người ta làm lễ tiễn ma nhà về với tổ tiên. Nơi thờ ma nhà tại góc hồi của gian thứ hai. Bàn thờ đơn giản, treo cao sát mái nhà.

Lễ tết: Người Ơ Ðu ăn tết Nguyên đán, tết cơm mới. Ngày hội lớn nhất là lễ đón tiếng sấm trong năm. Ngày đó, cư dân khắp nơi đổ về mở hội tế trời, mổ trâu, bò, lợn ăn mừng tại bản Xốp Pột, xã Kim Ða, Tương Dương, Nghệ An.

Văn nghệ: Người Ơ Ðu sử dụng thành thạo các loại nhạc cụ của người Khơ Mú, Thái như: sáo, khèn, chiêng, trống; thuộc các làn điệu dân ca Khơ Mú, Thái, kể chuyện dã sử.

Chơi: Người Ơ Ðu có vai trò chơi đánh khăng, chơi quay, ném còn, ô ăn quan.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Ơ Đu

Có thể bạn quan tâm

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Những ngày này, từ các tuyến phố trung tâm cho đến tận các thôn bản nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Tuyên Quang đều rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ, băng rôn chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là kỳ Đại hội đầu tiên sau khi hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, là sự kiện chính trị trọng đại, thể hiện ý chí, niềm tin và khát vọng của gần 1,9 triệu đồng bào các dân tộc trong tỉnh cùng hướng tới tương lai.

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer tỉnh Cà Mau hiện có trên 32 nghìn hộ với gần 140 nghìn nhân khẩu, chiếm gần 6,5% dân số toàn tỉnh. Những ngày này, tại các địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, không khí chào đón lễ Sene Dolta, một trong những lễ hội truyền thống quan trọng và mang đậm bản sắc văn hóa của người Khmer, diễn ra rộn ràng. 

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Tại miền đất Quảng Ngãi, các làn điệu dân ca H’rê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc. Để những giai điệu này không bị lãng quên, vai trò của người phụ nữ dân tộc H’rê vô cùng to lớn. Họ là những nghệ nhân thầm lặng, miệt mài gìn giữ và lan tỏa tình yêu với âm nhạc truyền thống, biến những lời ca thành sợi dây kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ và hiện tại.

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Trong không gian bảng lảng khói sương của núi rừng, của bản làng, bên những ngôi nhà sàn gỗ, những mế (phụ nữ lớn tuổi), ẻm (cô gái trẻ) trong trang phục áo pắn (áo ngắn), váy dài quấn kết hợp với cạp váy dệt hoa văn tinh xảo, đeo tênh (thắt lưng), xà tích và vấn khăn trắng trên đầu. Tiếng chiêng mường vang vọng cùng lời mo rì rầm đưa con người về lại với cội nguồn, về với những giá trị cốt lõi từ ngàn xưa… Đó là văn hóa Mường, là di sản, kho báu tinh thần của cộng đồng người Mường Hòa Bình cũ, nay là tỉnh Phú Thọ.

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu là một nghi thức quan trọng trong lễ cưới của đồng bào Dao đỏ ở bản Nậm Sáng, xã Mường Than, tỉnh Lai Châu. Trải qua thời gian cùng những thăng trầm của lịch sử, đến nay, người Dao đỏ nơi đây vẫn giữ được nghi thức truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Cô dâu mặc trang phục truyền thống rực rỡ sắc màu. Đoàn đón dâu nhà trai phải chuẩn bị một đội kèn trống gồm 4 người, đây là phần không thể thiếu trong nghi lễ đón dâu. Tiếng kèn, trống, chiêng, chũm chọe để chào mừng và thông báo cho tổ tiên, đất trời về sự kiện trọng đại này.

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram tại ấp Cù Lao, xã Hưng Hội (Cà Mau) như một "bảo tàng mỹ thuật" thể hiện tài năng của các nghệ nhân Khmer. Ngôi chùa cũng là một trong những điểm đến văn hóa vô cùng độc đáo tại Cà Mau.

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Bắc Ninh là địa phương sở hữu di sản Thực hành Then được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong dòng chảy văn hóa xứ Kinh Bắc, làn điệu Then vang lên như tiếng gọi của núi rừng, vừa mộc mạc vừa tha thiết. Tại miền đất giàu truyền thống văn hiến này, Then được cộng đồng đón nhận, trân trọng và đưa vào đời sống như một nét đẹp văn hóa; góp phần làm phong phú thêm bức tranh đa sắc màu của vùng đất này.

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Sau khi hợp nhất, không gian phát triển du lịch của tỉnh Đắk Lắk được mở rộng, tạo cơ hội cho các đơn vị, doanh nghiệp du lịch, lữ hành, lưu trú kết nối tiềm năng, lợi thế ở khu vực Đông - Tây. Du khách được trải nghiệm nhiều cung bậc cảm xúc của biển xanh, cát trắng, nắng vàng và đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ cùng những bản sắc văn hóa đặc trưng của đồng bào miền núi.

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Tây Ninh đang từng ngày gìn giữ và phát huy nghề truyền thống làm đầu lân cùng nghệ thuật múa lân sư rồng. Bằng đôi bàn tay khéo léo, các nghệ nhân tỉ mỉ tạo hình những chiếc đầu lân rực rỡ, hòa với nghệ thuật múa lân sư rồng trong các dịp lễ, Tết và chương trình nghệ thuật, tạo nên nét đẹp văn hóa gắn liền với đời sống tinh thần người dân, góp phần bảo tồn và lan tỏa bản sắc văn hóa đặc trưng của địa phương.

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Thôn Xí Thoại (xã Xuân Lãnh, tỉnh Đắk Lắk) được biết đến là nơi lưu giữ nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Ba Na. Không chỉ là nét đẹp văn hóa mang tính bản sắc, nghề dệt ở đây còn là điểm nhấn thu hút du khách trong hành trình khám phá bản sắc văn hóa.

Trải nghiệm nét văn hóa, truyền thống đặc trưng của các dân tộc

Trải nghiệm nét văn hóa, truyền thống đặc trưng của các dân tộc

Ngày 31/7, thông tin từ Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam cho biết, từ ngày 1 - 29/8/2025 tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) sẽ diễn ra nhiều hoạt động tháng 8 với chủ đề “Về Làng trải nghiệm nét văn hóa truyền thống”.

Thắp lửa truyền thống, đánh thức bản sắc văn hóa dân tộc S’tiêng

Thắp lửa truyền thống, đánh thức bản sắc văn hóa dân tộc S’tiêng

Đồng bào dân tộc S’tiêng với kho tàng văn hóa phong phú đang đứng trước thách thức trong việc gìn giữ và truyền dạy cho thế hệ mai sau. Trước thực trạng này, tại Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng sóc Bom Bo (xã Bom Bo, tỉnh Đồng Nai), chính quyền địa phương đang nỗ lực thắp lại ngọn lửa truyền thống, đánh thức tình yêu và ý thức bảo tồn văn hóa trong mỗi người trẻ.

Nghệ An: Giải mã nghi thức buộc chỉ cổ tay và lễ đặt tên của người Ơ Đu

Nghệ An: Giải mã nghi thức buộc chỉ cổ tay và lễ đặt tên của người Ơ Đu

Trải qua hàng trăm năm người Ơ Đu tại bản Văng Môn (xã Nga My, tỉnh Nghệ An) đã bảo lưu, gìn giữ và trao truyền được nhiều tập tục, nghi thức văn hóa, tín ngưỡng, nét sinh hoạt mang giá trị bản sắc văn hóa rất độc đáo, riêng có. Trong đó, nghi thức cột chỉ cổ tay và lễ đặt tên đều nằm trong Lễ đón tiếng sấm đầu năm, vốn là những nghi lễ tâm linh, tín ngưỡng độc đáo trong hệ thống lễ tục vòng đời của người Ơ Đu; thể hiện văn hóa ứng xử hài hòa giữa con người với thiên nhiên, hướng về cội nguồn, tri ân các vị tiền bối đã có công khai phá, bảo vệ bản mường, tạ ơn trời đất.

Đưa di sản vào đời sống đương đại, phát triển du lịch bền vững

Đưa di sản vào đời sống đương đại, phát triển du lịch bền vững

Ngày 14/7, tại xã Khổng Lào, Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lai Châu và UBND xã Khổng Lào tổ chức Lễ công bố Quyết định và trao chứng nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2025 cho tỉnh Lai Châu.

Đặc sắc nghệ thuật chế tác khèn Mông ở vùng cao Lào Cai

Đặc sắc nghệ thuật chế tác khèn Mông ở vùng cao Lào Cai

Với đồng bào Mông ở vùng cao Lào Cai, cây khèn là nhạc cụ truyền thống quan trọng và độc đáo không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Nghệ thuật chế tác khèn đã trở thành nghề truyền thống quan trọng được người Mông nơi rẻo cao gìn giữ và quảng bá sản phẩm tới du khách trong, ngoài nước.

Bảo tồn, phát triển văn hóa Khmer gắn với phát triển du lịch

Bảo tồn, phát triển văn hóa Khmer gắn với phát triển du lịch

Tại Bạc Liêu, đồng bào dân tộc Khmer có trên 78.000 người, chiếm 7,6% dân số. Đồng bào nơi đây có đời sống tinh thần phong phú với những ngôi chùa Khmer kiến trúc lộng lẫy, các loại hình nghệ thuật truyền thống và nhiều lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

Duy trì mức sinh thay thế, bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực

Duy trì mức sinh thay thế, bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực

Vĩnh Phúc hiện là một trong nhiều địa phương trên cả nước có mức sinh chênh lệch giữa các vùng, đối tượng ngày càng lớn. Trước tình hình đó, tỉnh đã nỗ lực triển khai các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình; từ đó đạt mức sinh thay thế, góp phần ổn định quy mô dân số.