Gìn giữ nét đẹp văn hóa người Cờ Lao đỏ (Bài 1)

Chị Min Thị Nguyệt giới thiệu về bộ váy áo cổ đã được lưu truyền 16 đời người. Ảnh: Nam Thái - TTXVN
Chị Min Thị Nguyệt giới thiệu về bộ váy áo cổ đã được lưu truyền 16 đời người. Ảnh: Nam Thái - TTXVN

Từ nhiều đời nay, người Cờ Lao đỏ (Hà Giang) đã sinh sống ở những bản làng bên sườn dãy Tây Côn Lĩnh. Là dân tộc rất ít người, trải qua thời gian, những giá trị văn hóa cốt lõi của người Cờ Lao đỏ tại Hà Giang đã có sự thay đổi, nhiều nét đẹp truyền thống được gìn giữ, bảo tồn từ đời này qua đời khác, nhưng cũng có không ít đặc trưng đã bị mất đi, phai mờ theo thời gian.

Phóng viên TTXVN thực hiện chùm 3 bài viết về công tác bảo tồn những đặc trưng, nét đẹp văn hóa của người Cờ Lao đỏ tại Hà Giang.

Bài 1- Những giá trị tồn tại hàng trăm năm

Đồng bào dân tộc Cờ Lao nói chung của Việt Nam theo tổng điều tra dân số năm 2019 có khoảng trên 4.000 người; trong đó, người Cờ Lao đỏ sinh sống tại huyện Hoàng Su Phì (Hà Giang) hiện có khoảng hơn 1.000 người với 202 hộ. Đặc biệt, đồng bào Cờ Lao đỏ tại đây sinh sống tập trung ở một số thôn của xã Túng Sán, huyện Hoàng Su Phì và còn lưu giữ được nhiều nét riêng từ đời này sang đời khác.

Cuộc thiên di lớn trong lịch sử

Theo Phó Trưởng phòng Văn hóa và Thông tin huyện Hoàng Su Phì Trần Chí Nhân, nguồn gốc của người Cờ Lao nói chung và người Cờ Lao xã Túng Sán nói riêng đã được đề cập nhiều trong thư tịch cổ và các tài liệu ghi chép; đặc biệt là các chi tiết từ cuốn gia phả của gia tộc ông Min Hùng Sài cũng như những bài cúng của các thầy cúng trong những dịp lễ tết. Hầu hết các tài liệu đều cho thấy, các họ người Cờ Lao xã Túng Sán có nguồn gốc từ tỉnh Quý Châu, Trung Quốc.

Tương truyền, vào cuối thế kỷ XIX, chiến tranh liên tục xảy ra làm mất mùa, đất đai bạc màu, nên thời vua Đồng Trị thứ 3 đã cho phép các tộc họ người Cờ Lao đi các nơi để kiếm sống, lập nghiệp. Quá trình thiên di được diễn ra thành nhiều đợt. Dẫn đầu đoàn người thiên di sang định cư ở xã Túng Sán (Hoàng Su Phì, Hà Giang) khi đó là một người đàn ông tên Chảo Lù Chín với 7 hộ gia đình của 7 họ gồm: Trảo, Min, Sú, Cáo, Giàng, Ly và họ Vương. Trải qua nhiều đời, người Cờ Lao đỏ vẫn sinh sống trên mảnh đất Túng Sán nhưng vì số lượng quá ít và trải qua biến thiên lịch sử nên chỉ còn 5 dòng họ là: Trảo, Min, Sú, Cáo và Vương.

Cũng theo ông Trần Chí Nhân, mặc dù ý thức về nguồn gốc tộc người đã có phần mờ nhạt do thời gian nhưng trong tiềm thức của người Cờ Lao nói chung vẫn còn lưu giữ một số dấu vết. Biểu hiện rõ nét nhất là các bài cúng trong tang lễ có chi tiết đưa hồn người chết về Quý Châu - tức là nơi phát tích của người Cờ Lao, hoặc trong một số bài dân ca cổ cũng nhắc đến chi tiết này.

Gìn giữ nét đẹp văn hóa người Cờ Lao đỏ (Bài 1) ảnh 1

Già làng Min Phà Kháy giới thiệu về những nghi thức cúng lễ miếu Hoàng Vần Thùng. Ảnh: Nam Thái - TTXVN

Ông Min Phà Kháy (thôn 4 Tả Chải, xã Túng Sán) là già làng có uy tín tại địa phương. Ông Kháy cho rằng, đồng bào Cờ Lao đỏ lập nghiệp tại đất này cũng đã được 16 đời người. Tính đến nay là được khoảng hơn 200 năm. Đồng bào Cờ Lao có nhiều nhóm người như: Cờ Lao đỏ, Cờ Lao trắng và Cờ lao xanh. Cách gọi như này căn cứ theo trang phục cổ của người Cờ Lao. Bà con sinh sống tại xã Túng Sán thuộc nhóm Cờ Lao đỏ.

Những dấu tích hàng trăm năm

Từ bao đời nay, người Cờ Lao đỏ xã Túng Sán vẫn truyền từ đời này qua đời khác bộ trang phục cổ được cho là đã tồn tại 16 đời người. Họ lưu giữ như báu vật của dân tộc; mỗi năm chỉ được sử dụng vài lần ở những dịp quan trọng như cúng lễ, làm ma khô…

Chị Min Thị Nguyệt (thôn 4 Tả Chải, xã Túng Sán, huyện Hoàng Su Phì) cho biết, bộ váy cổ này được dệt từ vải lông cừu với màu sắc chủ đạo là màu đỏ; đây là căn cứ để người Cờ Lao ở Túng Sán sau này chứng minh nguồn gốc là người Cờ Lao đỏ. Theo chị Min Thị Nguyệt, bộ váy cổ được dòng họ Min gìn giữ để con cháu sau này biết đến và học may theo. Đây cũng là bộ váy cổ nhất mà người Cờ Lao đỏ giữ được cho tới ngày nay.

Gìn giữ nét đẹp văn hóa người Cờ Lao đỏ (Bài 1) ảnh 2Chị Min Thị Nguyệt giới thiệu về bộ váy áo cổ đã được lưu truyền 16 đời người. Ảnh: Nam Thái - TTXVN

Ngoài việc ý thức giữ gìn những nét riêng về hiện vật, người Cờ Lao đỏ ở Túng Sán cũng luôn coi trọng việc thờ cúng tâm linh; đây cũng là cách thế hệ trước răn dạy thế hệ sau biết đến nguồn cội, tổ tiên. Khi tổ chức cúng tế, người Cờ Lao xã Túng Sán có 2 nơi cúng cố định, đó là bàn thờ của các gia đình để cúng ma tổ tiên (vào các ngày thanh minh, Rằm tháng 7 âm lịch) và tại miếu của làng (được tổ chức vào tháng 7 âm lịch hàng năm) cúng thần Hoàng Vần Thùng - được coi như Thành Hoàng của tộc người Cờ Lao.

Theo truyền thuyết của người Cờ Lao xã Túng Sán, Hoàng Vần Thùng là người có công khai thiên lập địa và giúp nhân dân trong vùng mở mang khai khẩn, đánh đuổi thú dữ, kẻ thù để giành lại cuộc sống bình yên cho dân làng. Vì vậy, ông được coi như vị Thành Hoàng của các tộc họ người Cờ Lao. Để tưởng nhớ công ơn của ông, vào tháng 7 âm lịch hàng năm, các tộc họ người Cờ Lao đều tổ chức cúng tế tại miếu. Theo già làng Min Phà Kháy, miếu thờ Hoàng Vần Thùng đã tồn tại qua 16 đời người, là chỗ dựa tâm linh cho nhân dân nơi đây. Mọi người cứ có việc gì cũng đều đến đây làm lễ, cầu mong nhận được sự che trở, phù hộ của bề trên.

Gìn giữ nét đẹp văn hóa người Cờ Lao đỏ (Bài 1) ảnh 3Phụ nữ Cờ Lao trong trang phục truyền thống.Nguồn: baohagiang.vn

Bên trong 4 bức tường đất đã bạc màu, những vết nứt thời gian dần xuất hiện theo năm tháng, 5 ban thờ được người Cờ Lao đỏ bày biện trang nghiêm. Ban thờ đầu tiên - Sơn Vương Thiên Tử, người Cờ Lao đỏ thờ phụng với mong muốn cầu mùa màng tốt tươi; ban thứ 2 thờ ông Hoàng Vần Thùng, đến ban thứ 3 thờ người lập ra miếu, ban thứ 4 thờ Bồ Tát với mong muốn cầu con cái và ban cuối cùng thờ Nương Nương cầu khẩn sự bình an, chăn nuôi thuận lợi…

Vào ngày Thìn đẹp nhất của tháng 7 âm lịch, bà con Cờ Lao tại đây lại tổ chức lễ cúng Hoàng Vần Thùng. Mọi người góp lợn, gà, bánh dày, bánh chưng, đậu phụ, bánh kẹo… để dâng lễ; sau đó cùng nhau thụ lộc ngay gian chính của ngôi miếu. Những chén rượu nồng được rót ra cùng những câu chuyện về gia đình, mùa màng khiến bữa cơm thêm tình đoàn kết, gắn bó. (Còn nữa-Bài 2: Một số nét đặc trưng bị mai một)

Nam Thái

(TTXVN)
Dân tộc Cờ Lao

Tên tự gọi: Cờ Lao.

Tên gọi khác: Tứ Ðư, Ho Ki, Voa Ðề.

Nhóm địa phương: Cờ Lao Xanh, Cờ Lao Trắng, Cờ Lao Ðỏ.

Dân số: 2.636 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Lịch sử: Người Cờ Lao chuyển cư tới Việt Nam cách đây khoảng 150 - 200 năm.

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Ðai, cùng nhóm với tiếng La Ha, La Chí, Pu Péo (ngữ hệ Thái - Ka Ðai). Trước đây, các nhóm địa phương có phương ngữ khác nhau nhưng hiện nay đa số người Cờ Lao Ðỏ, Cờ Lao Xanh không còn nói được tiếng mẹ đẻ của mình nữa. Tuỳ theo quá trình tiếp xúc, cộng cư họ quen sử dụng tiếng Quan Hỏa, tiếng Nùng hay tiếng Pu Péo, Mông.

Hoạt động sản xuất: Bộ phận người Cờ Lao ở vùng cao núi đá tai mèo chủ yếu làm nương cày, thổ canh hốc đá. Ngô là cây lương thực chính. Trên nương họ còn trồng đậu răng ngựa, lúa mạch, đậu Hà lan, su hào... Người Cờ Lao có truyền thống dùng phân chuồng, phân tro và nhiều kinh nghiệm sử dụng phân bón trên nương. Phân tro được bón vào từng hốc khi tra ngô.

Bộ phận người Cờ Lao ở vùng núi đất chuyên sống bằng nghề làm ruộng bậc thang, lúa là cây lương thực chính. Nghề thủ công truyền thống là đan lát (nong, bồ, phên, cót...) và làm đồ gỗ (bàn, hòm, yên ngựa, quan tài, các đồ đựng bằng gỗ). Nhiều làng có thợ rèn sửa chữa nông cụ.

Ăn: Tuỳ nơi, họ ăn ngô chế thành bột mèn mén hoặc ăn cơm, quen dùng bát, thìa muôi bằng gỗ.

Mặc: Phụ nữ mặc áo cùng loại với áo người Nùng, Giáy nhưng dài quá gối áo được trang trí bằng những miếng vải đáp trên hò áo, ngực, tay áo. Trước đây người Cờ Lao Trắng, Cờ Lao Xanh còn mặc thêm chiếc áo ngắn tay ra ngoài áo dài để phô những miếng vải mầu đắp trên tay áo trong, chân cuốn xà cạp.

: Người Cờ Lao thường sống thành từng làng khoảng 15 - 20 nóc nhà ở vùng núi đất huyện Hoàng Su Phì, hoặc núi đá tai mèo ở huyện Ðồng Văn (Hà Giang). Nhà ba gian hai trái, mái lợp cỏ gianh hoặc các ống vầu, nứa bổ đôi xếp úp ngửa. Người Cờ Lao Ðỏ làm nhà trình tường như người láng giềng Pu Péo.

Phương tiện vận chuyển: Dùng ngựa để thồ hàng là một phương tiện vận chuyển phổ biến của người Cờ Lao. Họ quen dùng địu đan bằng giang có hai quai đeo vai. Hàng ngày họ phải địu nước về nhà; ở vùng núi đất, dùng máng lần đưa nước về đến tận nhà hay gần nhà.

Quan hệ xã hội: Mỗi nhóm Cờ Lao thường có dòng họ khác nhau như các họ Vần, Hồ, Sếnh, Chảo (Cờ Lao Trắng), Min, Cáo, Sú Lý (Cờ Lao Ðỏ), Sáng (Cờ Lao Xanh). Gia đình nhỏ phụ hệ là phổ biến. Nếu nhà không có con trai, người ta thường lấy rể về ở rể. Con rể vẫn giữ họ của mình nhưng có quyền thừa kế tài sản nhà vợ. Người ở rể có bàn thờ tổ tiên mình và bàn thờ bố mẹ vợ.

Cưới xin: Tục lệ cưới xin khác nhau giữa các nhóm. Chú rể Cờ Lao Xanh mặc áo dài xanh, cuốn khăn đỏ qua người. Cô dâu về đến cổng phải dẫm vỡ một cái bát, một cái muôi gỗ đã để sẵn trước cổng. Cô dâu Cờ Lao Ðỏ chỉ ngủ lại nhà chồng đêm hôm đón dâu. Cách cưới kéo vợ hay cướp vợ như người Mông vẫn thường xảy ra.

Sinh đẻ: Người Cờ Lao không có tục chôn hay treo nhau đẻ lên cây mà thường đem đốt, rồi bỏ tro than vào hốc đá trên rừng. Con trai được đặt tên sau 3 ngày 3 đêm, con gái 2 ngày 3 đêm, ở một số nơi trẻ được đặt tên khi đầy tháng. Trong lễ đặt tên cúng tổ tiên và thần Ghi Trếnh, vị thần bảo vệ trẻ em, theo phong tục, bà ngoại đặt tên và tặng cháu quà.

Ma chay: Trong tang lễ có phong tục làm ma hai lần: lễ chôn người chết và lễ làm chay. Ở người Cờ Lao xanh, lễ làm chay có thể tiến hành ngay hôm chôn hay một vài năm sau. Người chết được cúng đưa hồn về Chan San, quê hương xưa. Người Cờ Lao Ðỏ có phong tục xếp đá quanh mộ, cứ 10 tuổi lại xếp một vòng đá. Các vòng đá tuổi được phủ kín đất; trên cùng lại xếp thêm một vòng đá nữa.

Thờ cúng: Người Cờ Lao tin mỗi người có 3 hồn; lúa, bắp và gia súc cũng đều có hồn. Hồn lúa (hồn lúa bố, hồn lúa mẹ, hồn lúa vợ và hồn lúa chồng) được cúng mỗi khi gặt xong và cúng vào dịp Tết 5 tháng 5. Tổ tiên được thờ 3 hay 4 đời. Thần đất là vị thần quan trọng được gia đình và toàn bản thờ cúng.

Lễ tết: Người Cờ Lao ăn Tết Nguyên đán, Tết Mùng 3 tháng 3, mùng 5 tháng 5, 15 tháng 7 và mùng 9 tháng 9 âm lịch như nhiều dân tộc ở vùng đông bắc Việt Nam.

Học: Chữ Hán được sử dụng phổ biến trong việc cúng lễ. Ngày nay như các dân tộc khác trong cả nước, học sinh được học tiếng Việt và chữ phổ thông.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Cờ Lao

Có thể bạn quan tâm

Bảo tồn không gian văn hóa của người Xơ Đăng

Bảo tồn không gian văn hóa của người Xơ Đăng

Trong hai ngày 11 và 12/12, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi tổ chức bàn giao mô hình bảo tồn di sản văn hóa truyền thống của dân tộc Xơ Đăng (nhóm Tơ Đ’ră) tại xã Ngọc Réo và dân tộc Xơ Đăng (nhóm Mơ Nâm) tại xã Kon Plông.

Sắc màu hội tụ và lan tỏa bản sắc 49 dân tộc tỉnh Lâm Đồng

Sắc màu hội tụ và lan tỏa bản sắc 49 dân tộc tỉnh Lâm Đồng

Chiều 12/12, tại Nhà truyền thống tổ dân phố N’Jriêng (phường Đông Gia Nghĩa), Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lâm Đồng tổ chức lễ bế mạc Liên hoan các câu lạc bộ cồng chiêng tỉnh lần thứ nhất, năm 2025 với chủ đề “Sắc màu hội tụ và lan tỏa”.

Độc đáo lễ mừng cơm mới của đồng bào Thái ở Mai Châu

Độc đáo lễ mừng cơm mới của đồng bào Thái ở Mai Châu

Trong không gian nhà sàn trầm ấm thoảng hương lúa mới, lễ cúng mừng cơm mới của đồng bào Thái ở Mai Châu, Phú Thọ từ nhiều đời nay vẫn được gìn giữ như một nghi lễ thiêng liêng. Lễ cúng mừng cơm mới là lời tri ân mùa màng, biểu tượng của văn hóa nông nghiệp lúa nước, là sợi dây gắn kết gia đình, dòng họ, cộng đồng người Thái trong hành trình lao động và gìn giữ bản sắc dân tộc.

Bảo tồn, gìn giữ giá trị Lễ mừng lúa mới của đồng bào Giẻ Triêng

Bảo tồn, gìn giữ giá trị Lễ mừng lúa mới của đồng bào Giẻ Triêng

Từ ngày 4 - 6/12/2025, Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp cùng Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tổ chức truyền dạy và phục dựng Lễ mừng lúa mới của dân tộc Giẻ Triêng, nhằm mục tiêu bảo tồn, gìn giữ những giá trị văn hóa của nghi lễ đặc trưng này, trong bối cảnh có nguy cơ bị mai một theo thời gian.

Tiếp tục khơi dòng chảy văn hóa bản địa đặc sắc của người Ê Đê

Tiếp tục khơi dòng chảy văn hóa bản địa đặc sắc của người Ê Đê

Người Ê Đê sinh sống tại huyện Sông Hinh (tỉnh Phú Yên cũ) nay thuộc các xã: Sông Hinh, Đức Bình, Ea Ly, Ea Bá (tỉnh Đắk Lắk) hiện còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống bản địa đặc sắc, độc đáo. Sau khi sáp nhập địa giới hành chính, chính quyền địa phương đã nỗ lực phát huy những giá trị đó trở thành điểm nhấn trong dòng chảy văn hóa địa phương, tạo thêm nhiều việc làm mới tăng thu nhập cho người Ê Đê thông qua các đề án phát triển du lịch cộng đồng.

Âm vang trống đồng trong đời sống người Lô Lô

Âm vang trống đồng trong đời sống người Lô Lô

Khi ánh mặt trời đầu ngày vừa chạm lên những mái trình tường vàng nơi bản Lô Lô Chải, sương vẫn còn quấn quanh triền núi, tiếng trống đồng bỗng ngân lên - trầm, vang, dội vào vách đá rồi lan ra thung sâu như một luồng sinh khí đánh thức cả cao nguyên. Đấy không chỉ là âm thanh mở đầu của lễ hội, mà là nhịp đập của bao thế hệ người Lô Lô, là lời khẳng định rằng giữa đại ngàn đá xám gió ngàn, bản làng này vẫn giữ trọn linh hồn văn hóa tự ngàn xưa.

Khát vọng vươn lên của xã miền núi Phú Thọ

Khát vọng vươn lên của xã miền núi Phú Thọ

Xã Liên Sơn nằm trong nhóm 5 xã có quy mô lớn nhất tỉnh Phú Thọ, sở hữu địa hình đa dạng, nguồn tài nguyên phong phú và nền văn hóa bản địa giàu bản sắc của đồng bào Mường.

Sắc màu văn hoá của đồng bào Chăm

Sắc màu văn hoá của đồng bào Chăm

Không gian văn hóa đền tháp của đồng bào Chăm tỉnh Khánh Hòa là điểm nhấn đặc sắc nằm trong chuỗi các hoạt động của Tuần “Đại đoàn kết các dân tộc - Di sản Văn hóa Việt Nam” (18 - 24/11/2025) đang được giới thiệu tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Sơn Tây, Hà Nội).

Sắc màu dân tộc thiểu số ở Bắc Ninh

Sắc màu dân tộc thiểu số ở Bắc Ninh

Tỉnh Bắc Ninh có trên 39 vạn người đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống (chiếm 11,02% dân số toàn tỉnh) với nhiều thành phần dân tộc, trong đó có 7 thành phần dân tộc thiểu số chủ yếu gồm: Nùng, Tày, Sán Dìu, Hoa, Cao Lan, Sán Chí, Dao (chiếm 97,78% tổng số người dân tộc thiểu số). Mỗi dân tộc có trang phục, tập quán riêng tạo sự khác biệt và đa dạng văn hóa cho vùng đất này.

Quảng bá thương hiệu trà Shan tuyết

Quảng bá thương hiệu trà Shan tuyết

Ngày 5/11, tại Nhà văn hóa Trung tâm, phường An Tường (Tuyên Quang), Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tuyên Quang tổ chức Hội thi sản phẩm trà Shan tuyết và kỹ thuật pha chế trà năm 2025.

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Hằng năm, vào ngày Mão tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân xã Đông Cuông, tỉnh Lào Cai rộn ràng tổ chức Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông. Đây là hoạt động truyền thống nhằm tổng kết một năm lao động, sản xuất, những người con quê hương, du khách bày tỏ lòng tri ân với Mẫu Thượng Ngàn, các đấng siêu nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Sáng 23/10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên tổ chức Khai mạc Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh, năm 2025. Sự kiện là hoạt động thiết thực nhằm chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025 - 2030; hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/1945 - 23/11/2025) và 80 năm Ngày Thể thao Việt Nam (27/3/1946 - 27/3/2026).

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Giữa nhịp sống hiện đại đang lan tỏa tới từng bản làng vùng cao, người Dao Tiền ở Bản Sưng, xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình cũ, nay thuộc tỉnh Phú Thọ) vẫn bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có nghi lễ cưới, một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, tín ngưỡng và đạo lý của cộng đồng.

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Chiều 20/10/2025, khoảnh khắc thiêng liêng và xúc động nhất trước thềm lễ hội Katê chính là khi cộng đồng người Chăm làng Hữu Đức (Phước Hữu, Khánh Hòa) trang trọng đón nhận y trang từ người anh em Raglai. Đây không chỉ là một nghi lễ, mà còn là một minh chứng sống động cho mối giao hảo bền chặt, độc đáo đã được trao truyền qua nhiều thế hệ trên mảnh đất đầy nắng và gió. 

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.