Khám phá phong tục cưới hỏi độc đáo của người Bhnong

Khám phá phong tục cưới hỏi độc đáo của người Bhnong
Cũng giống như các dân tộc khác, phong tục cưới hỏi rất được người Bhnong coi trọng. Luật tục Bhnong bảo vệ nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng; lên án và xử phạt nặng các vụ vi phạm lấy vợ hai, vợ ba, hoặc người chủ động bỏ vợ, bỏ chồng. Hôn nhân một vợ, một chồng bắt nguồn từ tình cảm yêu thương chân thật giữa đôi trai gái, không có tính chất mua bán, trao đổi hoặc ép buộc giữa hai gia đình.
 
Chỉ cưới nhau khi đã yêu thương, tìm hiểu nhau kỹ lưỡng

Thông thường điều kiện để con trai con gái người Bhnong lấy nhau là:

- Con trai đã biết làm các công việc như đan gùi, làm rẫy, săn bắn và các biệt tài khác như võ thuật, ca hát…. Luật tục quy định tiêu chuẩn để lấy vợ thì người con trai phải có ít nhất 02 đến 03 lần làm nhà làng.

- Con gái thì phải biết làm cỏ, tuốt lúa, dệt vải, hái rau …
 
Trong xã hội người Bhnong, ngoài chuyện tìm hiểu nhau, yêu đương nhau sau những lần gặp gỡ hẹn hò, cũng có trường hợp họ còn tìm hiểu nhau trong công việc làm ăn của cuộc sống thường ngày. Như người con gái theo dõi người con trai đi phát rẫy, đốn cây có khỏe không, có siêng năng và cần cù lao động không. Người con trai theo dõi người con gái về nét đi, dáng bước, nói năng có lưu loát không, có biết làm rẫy và trồng các loại rau, dưa, bầu, ớt … không, để sau này cưới về mới đảm bảo cuộc sống gia đình và nuôi con cái.

Xong giai đoạn tìm hiểu nhau, người con trai tìm cách tiếp cận gia đình người con gái. Đi tìm quả cau ngon, lá trầu xanh và nhờ trẻ con đem đưa cho nhà gái để nhà gái biết rằng người con trai đã để ý và yêu cô đó rồi, để tiến tới việc dạm hỏi sau này. Nếu bố mẹ nhà gái chấp nhận, thì lấy ăn, đây cũng là lúc người con trai sẵn sàng đi săn, đi bẫy để kiếm miếng thịt rừng ngon nhất gửi cho nhà gái.
 
Luật tục Bhnong bảo vệ nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng; lên án và xử phạt nặng các vụ vi phạm lấy vợ hai, vợ ba, hoặc người chủ động bỏ vợ, bỏ chồng. Ảnh: internet
Luật tục Bhnong bảo vệ nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng; lên án và xử phạt nặng các vụ vi phạm lấy vợ hai, vợ ba, hoặc người chủ động bỏ vợ, bỏ chồng. Ảnh: internet

Thời gian yêu đương có thể kéo dài hai đến ba mùa rẫy, khi đôi trai gái đã tìm hiểu nhau kỹ và thật sự yêu thương nhau, thật sự không thể nào xa nhau được cũng là lúc ý định kết hôn được nảy sinh.

Chàng trai thường tặng cho cô gái đồ trang sức, khuyên tai, vòng cườm hay sợi chỉ đỏ thắt tít thành một chiếc vòng đeo tay. Người con gái thường tặng cho người con trai túi xách tay do mình tự làm lấy. Thường bằng cử chỉ thay cho lời nói.

Sau thời gian yêu đương, họ báo cho gia đình cùng biết và nhờ ông mai đi nối duyên. Nếu mọi sự tốt đẹp có nghĩa được sự chấp thuận của gia đình thì ngày cưới được ấn định vào thời gian sau đó.

Đối với tộc người Bhnong, ông mai bà mối rất quan trọng, họ là người chủ hôn. Sau đám cưới nếu vợ chồng xích mích thì ông mai bà mối đứng ra hoà giải hai bên. Nhiệm vụ của họ kéo dài suốt cả cuộc đời của đôi vợ chồng mà họ làm mai mối.

Phong tục cưới xin nhiều công đoạn

Trước khi tổ chức nghi lễ cưới chính thì nghi lễ phụ khác như: lễ dạm hỏi (Kaơn), lễ hợp cẩn, lễ trình làng, lễ ra mắt họ hàng, lễ giã từ nhà làng( nếu trai , gái ở 2 làng khác nhau) . Nghi lễ cưới chính của đôi trai gái Bhnong thường được diễn ra vào mùa thu hoặc mùa đông, khi mùa màng đã thu hoạch, của cải vật chất đầy đủ, người dân bản làng nhàn rỗi và thời tiết cũng thuận lợi.

Theo phong tục xưa truyền lại, lễ cưới chính của tộc người Bhnong thường được diễn ra trong 3 ngày với các nghi lễ như: lễ chuyển củi; lễ xếp củi; lễ Bla (vợ chồng trao nhau nắm cơm, gan gà cùng ăn và uống rượu cần); Lễ Tahi (được tiến hành trong nội bộ họ hàng nhà trai, nhà gái); lễ Tava (một con heo được giết thịt chia cho 2 gia đình) và cuối cùng là tiệc đãi dân làng.

Trước khi tổ chức nghi lễ cưới chính thì nghi lễ phụ khác như: lễ dạm hỏi (Kaơn), lễ hợp cẩn, lễ trình làng, lễ ra mắt họ hàng, lễ giã từ nhà làng (nếu trai , gái ở 2 làng khác nhau). Ảnh: internet
Trước khi tổ chức nghi lễ cưới chính thì nghi lễ phụ khác như: lễ dạm hỏi (Kaơn), lễ hợp cẩn, lễ trình làng, lễ ra mắt họ hàng, lễ giã từ nhà làng (nếu trai , gái ở 2 làng khác nhau). Ảnh: internet

Tại sao lại gọi là lễ chuyển củi, xếp củi, bởi theo luật tục, củi đã là vật hứa hôn của các cô gái Bhnong với chàng trai mà họ yêu. Các thiếu nữ Bhnong khi đến tuổi cập kê thường lên rừng đốn củi mang về nhà xếp thành bó (100 bó) để sau này cõng về nhà chàng trai mà mình sẽ lấy làm chồng.

Củi hứa hôn có một vị trí quan trọng trong hôn lễ của tộc người Bhnong. Củi xấu hay đẹp, cong hay thẳng, nhiều hay ít thể hiện sự khéo léo, trưởng thành và khả năng làm chủ gia đình của người phụ nữ Bhnong.

Ngày đầu tiên của hôn lễ chính là ngày chuyển củi mà người Kinh thường gọi là ngày ăn hỏi. Trong ngày này, cô gái sẽ xin ý kiến của già làng, gia đình sau đó chuyển đống củi sang nhà trai. Đó gọi là củi bắt chồng hay củi cho chồng.

Người cõng củi trong ngày này ngoài cô dâu còn có các phụ nữ có chồng trong làng giúp cô. Việc chuyển củi sang nhà trai, dù ít hay nhiều cũng phải chuyển xong trong một ngày. Nếu nhà con trai và nhà gái quá xa mà củi hứa hôn lại nhiều thì cần thêm nhiều người giúp. Khi lượng củi chuyển qua nhà trai được khoảng hai phần ba, thì một số đàn ông nhà gái tới chặt cây, đào lỗ chôn cột, chuẩn bị cho việc xếp củi vào ngày hôm sau.

Ngày xếp củi được coi là ngày cưới nên cũng có nghi lễ trong khi xếp củi. Sau khi củi cưới đã được ngả ra, sẵn sàng cho việc xếp củi, cô dâu phải lấy những thanh củi đầu tiên, tự tay đưa cho chồng, rồi người chồng mới chuyển cho bố mẹ của mình để họ tự tay xếp lượt củi cưới đầu tiên lên dàn khuôn đã chuẩn bị sẵn. Sau nghi lễ đó những người thân mới tiếp tục xếp củi cưới thành khối vuông vức.

Trong ngày xếp củi, nhà trai làm cơm đãi những người xếp củi và nhà gái. Hoàn tất việc xếp củi, phần nghi lễ trong quy trình hôn lễ coi như đã hoàn tất, phần còn lại chỉ là việc tổ chức tiệc cưới, chiêu đãi làng và người thân. Một việc rất quan trọng là cuối ngày xếp củi, hai bên gia đình phải trồng cây nêu trước nhà làng để thông báo với mọi người trong làng, khách ở gần xa biết việc tổ chức đãi tiệc và có các hoạt động ca, múa dân gian trong dịp cưới.

Việc làm cây nêu được Già làng hoặc những người thông thạo phong tục hướng dẫn, giúp đỡ. Không khí trong làng vào dịp này rất nhộn nhịp, người lớn thì bàn bạc cách thức tiến hành hôn lễ chính, chuẩn bị lương thực, thực phẩm để làm tiệc đãi khách. Các nghệ nhân tập lại các tiết mục nghệ thuật dân gian, trai gái thì chuẩn bị trang phục, cồng chiêng, nhạc cụ… và lo các việc khác phục vụ ngày cưới. Trẻ em thì phấn khởi vì được mặc áo đẹp, được xem ca , múa… và quan trọng hơn là được ăn ngon.

Củi cưới.
Củi cưới.

Lễ đám cưới được chính thức diễn ra dưới sự điều hành của người mai mối cùng các vật hiến sinh như: gà, lợn... Lễ vật gồm gùi, ché và trang phục của nhà gái để biếu nhà trai (tùy theo điều kiện của nhà gái, nhà trai không đòi hỏi). Lợn phải do nhà trai chuẩn bị và đại diện nhà gái chọc tiết. Tại nghi thức này, mọi người đứng sau rờ vào áo người đứng trước và rờ vào người cầm con dao chọc tiết lợn với ý nguyện chúc phúc cho đôi vợ chồng trẻ và bản thân mình cũng được khoẻ mạnh, hạnh phúc, no đủ. Nhà trai tặng cho nhà gái 1 đùi sau của con lợn, ít gạo, muối, ớt và 1 bầu rượu để nhà gái gùi mang về. Sau khi ăn uống no say, người mai mối tiếp tục tiến hành lễ Tặng lễ vật và nhà trai, nhà gái chúc nhau bằng hình thức đối đáp, giao duyên.

Vật chất đãi tiệc trong hôn lễ, quan trọng nhất là rượu cần. Vì vậy, tối thiểu nhà trai hoặc nhà gái phải chuẩn bị từ 20 đến 30 ché. Số rượu này một phần do gia đình chuẩn bị trước, một phần do người trong dòng tộc, người thân cho. Đối với thực phẩm, bò và heo được mổ thịt ngay trong đêm, một số thịt được nướng sơ rồi sau đó mới mang đi để chế biến thành các món ăn. Số thịt heo, thịt bò còn lại được xẻ thành từng miếng gần bằng nhau, xâu bằng lạt tre để làm quà chia đều cho bà con, họ hàng và cả khách thập phương đến làng vào dịp đám cưới.

Phong tục sau lễ cưới

Theo phong tục, sau lễ cưới, nhà trai sẽ tiếp tục tổ chức ở nhà gái nhưng nếu đôi trai gái không ở chung làng thì sau đám cưới nhà trai nghỉ 1 ngày rồi qua nhà gái tổ chức. Mọi lễ thức diễn ra tương tự ở nhà trai, không có Lễ chuyển củi, nhưng riêng lợn nhà gái chuẩn bị phải do nhà trai chọc tiết. Đặc biệt, Lễ cưới tại nhà gái, có nghi thức bắt chồng do 2 vợ chồng mới và thanh niên trong làng xắp xếp trước.
Sau đám cưới, đôi vợ chồng mới sinh sống ở nhà trai hoặc nhà gái tùy theo hoàn cảnh 2 gia đình. Nếu bên nhà gái neo đơn, ít lao động, thì đôi vợ chồng mới  sẽ ở nhà gái từ 2 đến 3 năm, hoặc ngược lại. Sau thời gian ở chung, khi đôi vợ chồng mới có đủ điều kiện và 2 bên gia đình nội ngoại có đủ lực lượng lao động, đôi vợ chồng mới có thể tách bếp, ở riêng để lo toan cho cuộc sống gia đình mình.
 
Hai vợ chồng cùng uống rượu cần trong lễ cưới. Ảnh: internet
Hai vợ chồng cùng uống rượu cần trong lễ cưới. Ảnh: internet

Sau đám cưới, phải qua 1 mùa rẫy ( 1 năm ) người vợ mới được mang thai. Nếu mang thai trước, gia đình mới sẽ bị xử phạt theo Luật tục, phải nộp trâu cho làng để già làng làm Lễ xin với Yàng và đôi vợ chồng vi phạm sẽ bị đưa ra khỏi làng 3 năm. Sau 3 năm mới cho về sống trong làng.

Luật tục Bhnong còn quy định, trong gia đình, nếu người chồng, hoặc vợ bỏ nhau thì người gây ra phải nộp trâu cho làng mình sinh sống và đền cho người bị bỏ.

Ngày nay, cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội, với sự giao thoa, đan xen giữa các nền văn hóa các dân tộc, một số nghi thức lễ cưới truyền thống đã bị mất đi như nghi thức bắt chồng. Tuy nhiên, củi hứa hôn phần lớn vẫn còn giữ được ở nhiều làng, đây là nét độc đáo trong văn hóa truyền thống của người Bhnong.

Tóm lại, hôn nhân của người Bhnong rất coi trọng hình thức một vợ một chồng, trên sự tự nguyện, tìm hiểu, yêu thương của người con trai, con gái. Hôn nhân có tính chất bền vững. Ở người Bhnong, trường hợp ly hôn rất hiếm xảy ra. Người Bhnong không có tục thách cưới, dù tổ chức nhiều nghi thức nhưng đều tùy theo điều kiện, hoàn cảnh của mỗi gia đình. Đặc biệt, mỗi khi có lễ cưới, tất cả mọi người trong làng đều được vui chơi ăn uống bình đẳng, kể cả khách lạ ghé thăm làng và trên hết không yêu cầu mọi người phải có quà tặng cho cô dâu, chú rể.
Theo thegioidisan.vn

Có thể bạn quan tâm

Thắp lửa truyền thống, đánh thức bản sắc văn hóa dân tộc S’tiêng

Thắp lửa truyền thống, đánh thức bản sắc văn hóa dân tộc S’tiêng

Đồng bào dân tộc S’tiêng với kho tàng văn hóa phong phú đang đứng trước thách thức trong việc gìn giữ và truyền dạy cho thế hệ mai sau. Trước thực trạng này, tại Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng sóc Bom Bo (xã Bom Bo, tỉnh Đồng Nai), chính quyền địa phương đang nỗ lực thắp lại ngọn lửa truyền thống, đánh thức tình yêu và ý thức bảo tồn văn hóa trong mỗi người trẻ.

Nghệ An: Giải mã nghi thức buộc chỉ cổ tay và lễ đặt tên của người Ơ Đu

Nghệ An: Giải mã nghi thức buộc chỉ cổ tay và lễ đặt tên của người Ơ Đu

Trải qua hàng trăm năm người Ơ Đu tại bản Văng Môn (xã Nga My, tỉnh Nghệ An) đã bảo lưu, gìn giữ và trao truyền được nhiều tập tục, nghi thức văn hóa, tín ngưỡng, nét sinh hoạt mang giá trị bản sắc văn hóa rất độc đáo, riêng có. Trong đó, nghi thức cột chỉ cổ tay và lễ đặt tên đều nằm trong Lễ đón tiếng sấm đầu năm, vốn là những nghi lễ tâm linh, tín ngưỡng độc đáo trong hệ thống lễ tục vòng đời của người Ơ Đu; thể hiện văn hóa ứng xử hài hòa giữa con người với thiên nhiên, hướng về cội nguồn, tri ân các vị tiền bối đã có công khai phá, bảo vệ bản mường, tạ ơn trời đất.

Đưa di sản vào đời sống đương đại, phát triển du lịch bền vững

Đưa di sản vào đời sống đương đại, phát triển du lịch bền vững

Ngày 14/7, tại xã Khổng Lào, Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lai Châu và UBND xã Khổng Lào tổ chức Lễ công bố Quyết định và trao chứng nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2025 cho tỉnh Lai Châu.

Đặc sắc nghệ thuật chế tác khèn Mông ở vùng cao Lào Cai

Đặc sắc nghệ thuật chế tác khèn Mông ở vùng cao Lào Cai

Với đồng bào Mông ở vùng cao Lào Cai, cây khèn là nhạc cụ truyền thống quan trọng và độc đáo không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Nghệ thuật chế tác khèn đã trở thành nghề truyền thống quan trọng được người Mông nơi rẻo cao gìn giữ và quảng bá sản phẩm tới du khách trong, ngoài nước.

Bảo tồn, phát triển văn hóa Khmer gắn với phát triển du lịch

Bảo tồn, phát triển văn hóa Khmer gắn với phát triển du lịch

Tại Bạc Liêu, đồng bào dân tộc Khmer có trên 78.000 người, chiếm 7,6% dân số. Đồng bào nơi đây có đời sống tinh thần phong phú với những ngôi chùa Khmer kiến trúc lộng lẫy, các loại hình nghệ thuật truyền thống và nhiều lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

Duy trì mức sinh thay thế, bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực

Duy trì mức sinh thay thế, bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực

Vĩnh Phúc hiện là một trong nhiều địa phương trên cả nước có mức sinh chênh lệch giữa các vùng, đối tượng ngày càng lớn. Trước tình hình đó, tỉnh đã nỗ lực triển khai các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình; từ đó đạt mức sinh thay thế, góp phần ổn định quy mô dân số.

Khai thác thế mạnh xuất khẩu sản phẩm nông - thủy sản có lợi thế cạnh tranh

Khai thác thế mạnh xuất khẩu sản phẩm nông - thủy sản có lợi thế cạnh tranh

Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Tiền Giang Lưu Văn Phi cho biết: Hiện nay, tỉnh nỗ lực khai thác những tiềm năng và thế mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông - thủy sản có lợi thế cạnh tranh; tích cực nắm bắt cơ hội, mở rộng thị trường, nhằm đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu bền vững, thu hút ngoại tệ.

'Chìa khóa' để bắt kịp xu thế cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4

'Chìa khóa' để bắt kịp xu thế cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4

Ngày 6/6, UBND tỉnh Lai Châu và Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông đã ký kết thỏa thuận hợp tác đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh giai đoạn 2025 - 2030.

Phát huy vai trò khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới

Phát huy vai trò khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới

Ngày 4/6, tại tỉnh Sóc Trăng, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Hậu Giang và thành phố Cần Thơ phối hợp tổ chức Hội nghị đóng góp ý kiến vào dự thảo Đề án sắp xếp, hợp nhất Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội và hội quần chúng 3 tỉnh, thành phố (hội nghị lần thứ 3).

Truyền thông Campuchia ca ngợi sức sống mới ở vùng đồng bào Khmer Nam Bộ

Truyền thông Campuchia ca ngợi sức sống mới ở vùng đồng bào Khmer Nam Bộ

Trong những ngày đầu tháng này, các phương tiện truyền thông Campuchia đăng tải nhiều chủ đề bài viết đính kèm hình ảnh đa dạng, giới thiệu về cuộc sống mới với nhiều khởi sắc, đổi thay toàn diện trong vùng đồng bào Khmer tại các tỉnh, thành vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.

Đẩy mạnh phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

Đẩy mạnh phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

Theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tiền Giang Trần Hoàng Nhật Nam, nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, địa phương đã tổ chức được mạng lưới 198 hợp tác xã nông nghiệp - thủy sản, thu hút gần 55.000 thành viên; giải quyết công ăn việc làm cho gần 2.000 lao động. Đến đầu tháng 6/2025, các hợp tác xã trên lĩnh vực nông nghiệp - thủy sản đã đạt doanh thu khoảng 140 tỷ đồng, tăng gần 25% so với cùng kỳ năm trước.

Các tỉnh Tây Nam Bộ tập trung thực hiện hoàn thành công tác dân tộc

Các tỉnh Tây Nam Bộ tập trung thực hiện hoàn thành công tác dân tộc

Ngày 30/5, tại Sóc Trăng, Bộ Dân tộc và Tôn giáo tổ chức Hội nghị tổng kết công tác thi đua khen thưởng Cụm thi đua số 6 (gồm 10 địa phương: Vĩnh Long, Trà Vinh, Long An, Kiên Giang, An Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ) về công tác dân tộc.

Hiệu quả từ mô hình 'Họ đạo bình yên - gia đình hòa thuận' của đồng bào K’Ho

Hiệu quả từ mô hình 'Họ đạo bình yên - gia đình hòa thuận' của đồng bào K’Ho

Được thành lập từ năm 2019, mô hình “Họ đạo bình yên - Gia đình hạnh phúc” ở buôn B’laosire thuộc tổ dân phố 14, phường B’Lao (thành phố Bảo Lộc, Lâm Đồng) được đánh giá cao bởi tính hiệu quả. Từ nhiều năm qua, mô hình góp phần bảo đảm an ninh trật tự, người dân tập trung làm ăn phát triển kinh tế, hàng chục hộ vươn lên thoát nghèo, Họ đạo được Bộ Công an khen thưởng vào năm 2024.

Yên Lạc “giữ lửa” nghề chằm áo tơi truyền thống

Yên Lạc “giữ lửa” nghề chằm áo tơi truyền thống

Chiếc áo mộc mạc, được làm từ những tàu lá cọ khô, không chỉ là vật dụng che mưa nắng quen thuộc của người dân thôn Yên Lạc (xã Quang Lộc, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh) suốt hàng trăm năm, mà còn là biểu tượng của sự cần cù, khéo léo và nét đẹp văn hóa đậm đà bản sắc. Giữa nhịp sống hối hả, nghề chằm áo tơi truyền thống vẫn được người dân lặng lẽ “giữ lửa”, trao truyền qua bao thế hệ, bảo tồn một phần hồn quê hương trong từng sợi lá.

Tết mùa mưa đặc sắc của dân tộc Hà Nhì

Tết mùa mưa đặc sắc của dân tộc Hà Nhì

Đồng bào dân tộc Hà Nhì có nhiều phong tục đặc sắc, trong đó có Tết mùa mưa (Dế Khừ Chà) là một trong bảy Tết trong năm theo phong tục cổ truyền của người Hà Nhì.

Lễ Mạng Ma - Nghi lễ tâm linh của người Xinh Mun

Lễ Mạng Ma - Nghi lễ tâm linh của người Xinh Mun

Vào độ xuân về khi hoa ban nở trắng rừng, người Xinh Mun ở Sơn La lại tổ chức Lễ Mạng Ma – một nghi lễ tâm linh truyền thống cầu sức khỏe, giải hạn, thể hiện niềm tin sâu sắc vào sự kết nối giữa con người với thần linh, tổ tiên và vạn vật thiên nhiên.

Tục nhuộm răng đen - nét văn hóa đặc sắc của phụ nữ dân tộc Lự ở Lai Châu

Tục nhuộm răng đen - nét văn hóa đặc sắc của phụ nữ dân tộc Lự ở Lai Châu

Dân tộc Lự là một trong những dân tộc rất ít người có số dân dưới 10 nghìn người hiện đang sinh sống chủ yếu ở huyện Tam Đường và huyện Sìn Hồ tỉnh Lai Châu, đã từ lâu, tục nhuộm răng đen của phụ nữ dân tộc Lự là một trong những nét văn hóa đặc trưng. Hiện, các cấp ủy, chính quyền huyện tăng cường tuyên truyền vận động người dân tiếp tục truyền dậy, phát huy những giá trị bản sắc văn hóa của dân tộc Lự trước nguy cơ bị mai một.

Tái hiện lễ cúng trưởng thành của đồng bào Ê Đê

Tái hiện lễ cúng trưởng thành của đồng bào Ê Đê

Trong khuôn khổ các hoạt động của Ngày Văn hoá các dân tộc Việt Nam (19/4), tại Làng Văn hoá – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội), đồng bào dân tộc Ê Đê đã tái hiện nghi lễ trưởng thành đặc sắc của dân tộc mình.

Gìn giữ bánh truyền thống Khẩu Sli của người Tày, Nùng ở Cao Bằng

Gìn giữ bánh truyền thống Khẩu Sli của người Tày, Nùng ở Cao Bằng

Cao Bằng, một tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, không chỉ nổi tiếng với cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ mà còn là nơi lưu giữ nhiều nét văn hóa đặc sắc của các dân tộc thiểu số. Một trong những món ăn truyền thống nổi bật của người Tày, người Nùng ở đây là bánh Khẩu Sli, món bánh mang đậm hương vị quê hương và được người dân nơi đây coi là món quà tuyệt vời trong những dịp lễ, Tết.

Lễ ăn mừng đầu lúa mới của đồng bào Raglai

Lễ ăn mừng đầu lúa mới của đồng bào Raglai

Đồng bào Raglai sở hữu một kho tàng tri thức dân gian đồ sộ, từ sử thi, truyện cổ, dân ca đến luật tục… Không chỉ vậy, đồng bào còn lưu giữ nhiều lễ hội dân gian đặc sắc như Lễ ăn mừng đầu lúa mới, lễ bỏ mả, các nghi lễ vòng đời… Trong đó lễ ăn mừng đầu lúa mới đã được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, khẳng định gái trị văn hóa sâu sắc và vai trò quan trọng trong đời sống, tinh thần của cộng đồng người Ragalai.

Món cà đắng lòng gà bọc lá chuối của người Jrai

Món cà đắng lòng gà bọc lá chuối của người Jrai

Ẩm thực của người Jrai ở Gia Lai luôn độc đáo với những món ăn ngon, dân dã, đậm nét truyền thống. Trong số đó, món cà đắng lòng gà bọc lá chuối nổi bật như một biểu tượng của sự sáng tạo và gắn kết với thiên nhiên.