Khám phá phong tục cưới hỏi độc đáo của người Bhnong

Khám phá phong tục cưới hỏi độc đáo của người Bhnong
Cũng giống như các dân tộc khác, phong tục cưới hỏi rất được người Bhnong coi trọng. Luật tục Bhnong bảo vệ nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng; lên án và xử phạt nặng các vụ vi phạm lấy vợ hai, vợ ba, hoặc người chủ động bỏ vợ, bỏ chồng. Hôn nhân một vợ, một chồng bắt nguồn từ tình cảm yêu thương chân thật giữa đôi trai gái, không có tính chất mua bán, trao đổi hoặc ép buộc giữa hai gia đình.
 
Chỉ cưới nhau khi đã yêu thương, tìm hiểu nhau kỹ lưỡng

Thông thường điều kiện để con trai con gái người Bhnong lấy nhau là:

- Con trai đã biết làm các công việc như đan gùi, làm rẫy, săn bắn và các biệt tài khác như võ thuật, ca hát…. Luật tục quy định tiêu chuẩn để lấy vợ thì người con trai phải có ít nhất 02 đến 03 lần làm nhà làng.

- Con gái thì phải biết làm cỏ, tuốt lúa, dệt vải, hái rau …
 
Trong xã hội người Bhnong, ngoài chuyện tìm hiểu nhau, yêu đương nhau sau những lần gặp gỡ hẹn hò, cũng có trường hợp họ còn tìm hiểu nhau trong công việc làm ăn của cuộc sống thường ngày. Như người con gái theo dõi người con trai đi phát rẫy, đốn cây có khỏe không, có siêng năng và cần cù lao động không. Người con trai theo dõi người con gái về nét đi, dáng bước, nói năng có lưu loát không, có biết làm rẫy và trồng các loại rau, dưa, bầu, ớt … không, để sau này cưới về mới đảm bảo cuộc sống gia đình và nuôi con cái.

Xong giai đoạn tìm hiểu nhau, người con trai tìm cách tiếp cận gia đình người con gái. Đi tìm quả cau ngon, lá trầu xanh và nhờ trẻ con đem đưa cho nhà gái để nhà gái biết rằng người con trai đã để ý và yêu cô đó rồi, để tiến tới việc dạm hỏi sau này. Nếu bố mẹ nhà gái chấp nhận, thì lấy ăn, đây cũng là lúc người con trai sẵn sàng đi săn, đi bẫy để kiếm miếng thịt rừng ngon nhất gửi cho nhà gái.
 
Luật tục Bhnong bảo vệ nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng; lên án và xử phạt nặng các vụ vi phạm lấy vợ hai, vợ ba, hoặc người chủ động bỏ vợ, bỏ chồng. Ảnh: internet
Luật tục Bhnong bảo vệ nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng; lên án và xử phạt nặng các vụ vi phạm lấy vợ hai, vợ ba, hoặc người chủ động bỏ vợ, bỏ chồng. Ảnh: internet

Thời gian yêu đương có thể kéo dài hai đến ba mùa rẫy, khi đôi trai gái đã tìm hiểu nhau kỹ và thật sự yêu thương nhau, thật sự không thể nào xa nhau được cũng là lúc ý định kết hôn được nảy sinh.

Chàng trai thường tặng cho cô gái đồ trang sức, khuyên tai, vòng cườm hay sợi chỉ đỏ thắt tít thành một chiếc vòng đeo tay. Người con gái thường tặng cho người con trai túi xách tay do mình tự làm lấy. Thường bằng cử chỉ thay cho lời nói.

Sau thời gian yêu đương, họ báo cho gia đình cùng biết và nhờ ông mai đi nối duyên. Nếu mọi sự tốt đẹp có nghĩa được sự chấp thuận của gia đình thì ngày cưới được ấn định vào thời gian sau đó.

Đối với tộc người Bhnong, ông mai bà mối rất quan trọng, họ là người chủ hôn. Sau đám cưới nếu vợ chồng xích mích thì ông mai bà mối đứng ra hoà giải hai bên. Nhiệm vụ của họ kéo dài suốt cả cuộc đời của đôi vợ chồng mà họ làm mai mối.

Phong tục cưới xin nhiều công đoạn

Trước khi tổ chức nghi lễ cưới chính thì nghi lễ phụ khác như: lễ dạm hỏi (Kaơn), lễ hợp cẩn, lễ trình làng, lễ ra mắt họ hàng, lễ giã từ nhà làng( nếu trai , gái ở 2 làng khác nhau) . Nghi lễ cưới chính của đôi trai gái Bhnong thường được diễn ra vào mùa thu hoặc mùa đông, khi mùa màng đã thu hoạch, của cải vật chất đầy đủ, người dân bản làng nhàn rỗi và thời tiết cũng thuận lợi.

Theo phong tục xưa truyền lại, lễ cưới chính của tộc người Bhnong thường được diễn ra trong 3 ngày với các nghi lễ như: lễ chuyển củi; lễ xếp củi; lễ Bla (vợ chồng trao nhau nắm cơm, gan gà cùng ăn và uống rượu cần); Lễ Tahi (được tiến hành trong nội bộ họ hàng nhà trai, nhà gái); lễ Tava (một con heo được giết thịt chia cho 2 gia đình) và cuối cùng là tiệc đãi dân làng.

Trước khi tổ chức nghi lễ cưới chính thì nghi lễ phụ khác như: lễ dạm hỏi (Kaơn), lễ hợp cẩn, lễ trình làng, lễ ra mắt họ hàng, lễ giã từ nhà làng (nếu trai , gái ở 2 làng khác nhau). Ảnh: internet
Trước khi tổ chức nghi lễ cưới chính thì nghi lễ phụ khác như: lễ dạm hỏi (Kaơn), lễ hợp cẩn, lễ trình làng, lễ ra mắt họ hàng, lễ giã từ nhà làng (nếu trai , gái ở 2 làng khác nhau). Ảnh: internet

Tại sao lại gọi là lễ chuyển củi, xếp củi, bởi theo luật tục, củi đã là vật hứa hôn của các cô gái Bhnong với chàng trai mà họ yêu. Các thiếu nữ Bhnong khi đến tuổi cập kê thường lên rừng đốn củi mang về nhà xếp thành bó (100 bó) để sau này cõng về nhà chàng trai mà mình sẽ lấy làm chồng.

Củi hứa hôn có một vị trí quan trọng trong hôn lễ của tộc người Bhnong. Củi xấu hay đẹp, cong hay thẳng, nhiều hay ít thể hiện sự khéo léo, trưởng thành và khả năng làm chủ gia đình của người phụ nữ Bhnong.

Ngày đầu tiên của hôn lễ chính là ngày chuyển củi mà người Kinh thường gọi là ngày ăn hỏi. Trong ngày này, cô gái sẽ xin ý kiến của già làng, gia đình sau đó chuyển đống củi sang nhà trai. Đó gọi là củi bắt chồng hay củi cho chồng.

Người cõng củi trong ngày này ngoài cô dâu còn có các phụ nữ có chồng trong làng giúp cô. Việc chuyển củi sang nhà trai, dù ít hay nhiều cũng phải chuyển xong trong một ngày. Nếu nhà con trai và nhà gái quá xa mà củi hứa hôn lại nhiều thì cần thêm nhiều người giúp. Khi lượng củi chuyển qua nhà trai được khoảng hai phần ba, thì một số đàn ông nhà gái tới chặt cây, đào lỗ chôn cột, chuẩn bị cho việc xếp củi vào ngày hôm sau.

Ngày xếp củi được coi là ngày cưới nên cũng có nghi lễ trong khi xếp củi. Sau khi củi cưới đã được ngả ra, sẵn sàng cho việc xếp củi, cô dâu phải lấy những thanh củi đầu tiên, tự tay đưa cho chồng, rồi người chồng mới chuyển cho bố mẹ của mình để họ tự tay xếp lượt củi cưới đầu tiên lên dàn khuôn đã chuẩn bị sẵn. Sau nghi lễ đó những người thân mới tiếp tục xếp củi cưới thành khối vuông vức.

Trong ngày xếp củi, nhà trai làm cơm đãi những người xếp củi và nhà gái. Hoàn tất việc xếp củi, phần nghi lễ trong quy trình hôn lễ coi như đã hoàn tất, phần còn lại chỉ là việc tổ chức tiệc cưới, chiêu đãi làng và người thân. Một việc rất quan trọng là cuối ngày xếp củi, hai bên gia đình phải trồng cây nêu trước nhà làng để thông báo với mọi người trong làng, khách ở gần xa biết việc tổ chức đãi tiệc và có các hoạt động ca, múa dân gian trong dịp cưới.

Việc làm cây nêu được Già làng hoặc những người thông thạo phong tục hướng dẫn, giúp đỡ. Không khí trong làng vào dịp này rất nhộn nhịp, người lớn thì bàn bạc cách thức tiến hành hôn lễ chính, chuẩn bị lương thực, thực phẩm để làm tiệc đãi khách. Các nghệ nhân tập lại các tiết mục nghệ thuật dân gian, trai gái thì chuẩn bị trang phục, cồng chiêng, nhạc cụ… và lo các việc khác phục vụ ngày cưới. Trẻ em thì phấn khởi vì được mặc áo đẹp, được xem ca , múa… và quan trọng hơn là được ăn ngon.

Củi cưới.
Củi cưới.

Lễ đám cưới được chính thức diễn ra dưới sự điều hành của người mai mối cùng các vật hiến sinh như: gà, lợn... Lễ vật gồm gùi, ché và trang phục của nhà gái để biếu nhà trai (tùy theo điều kiện của nhà gái, nhà trai không đòi hỏi). Lợn phải do nhà trai chuẩn bị và đại diện nhà gái chọc tiết. Tại nghi thức này, mọi người đứng sau rờ vào áo người đứng trước và rờ vào người cầm con dao chọc tiết lợn với ý nguyện chúc phúc cho đôi vợ chồng trẻ và bản thân mình cũng được khoẻ mạnh, hạnh phúc, no đủ. Nhà trai tặng cho nhà gái 1 đùi sau của con lợn, ít gạo, muối, ớt và 1 bầu rượu để nhà gái gùi mang về. Sau khi ăn uống no say, người mai mối tiếp tục tiến hành lễ Tặng lễ vật và nhà trai, nhà gái chúc nhau bằng hình thức đối đáp, giao duyên.

Vật chất đãi tiệc trong hôn lễ, quan trọng nhất là rượu cần. Vì vậy, tối thiểu nhà trai hoặc nhà gái phải chuẩn bị từ 20 đến 30 ché. Số rượu này một phần do gia đình chuẩn bị trước, một phần do người trong dòng tộc, người thân cho. Đối với thực phẩm, bò và heo được mổ thịt ngay trong đêm, một số thịt được nướng sơ rồi sau đó mới mang đi để chế biến thành các món ăn. Số thịt heo, thịt bò còn lại được xẻ thành từng miếng gần bằng nhau, xâu bằng lạt tre để làm quà chia đều cho bà con, họ hàng và cả khách thập phương đến làng vào dịp đám cưới.

Phong tục sau lễ cưới

Theo phong tục, sau lễ cưới, nhà trai sẽ tiếp tục tổ chức ở nhà gái nhưng nếu đôi trai gái không ở chung làng thì sau đám cưới nhà trai nghỉ 1 ngày rồi qua nhà gái tổ chức. Mọi lễ thức diễn ra tương tự ở nhà trai, không có Lễ chuyển củi, nhưng riêng lợn nhà gái chuẩn bị phải do nhà trai chọc tiết. Đặc biệt, Lễ cưới tại nhà gái, có nghi thức bắt chồng do 2 vợ chồng mới và thanh niên trong làng xắp xếp trước.
Sau đám cưới, đôi vợ chồng mới sinh sống ở nhà trai hoặc nhà gái tùy theo hoàn cảnh 2 gia đình. Nếu bên nhà gái neo đơn, ít lao động, thì đôi vợ chồng mới  sẽ ở nhà gái từ 2 đến 3 năm, hoặc ngược lại. Sau thời gian ở chung, khi đôi vợ chồng mới có đủ điều kiện và 2 bên gia đình nội ngoại có đủ lực lượng lao động, đôi vợ chồng mới có thể tách bếp, ở riêng để lo toan cho cuộc sống gia đình mình.
 
Hai vợ chồng cùng uống rượu cần trong lễ cưới. Ảnh: internet
Hai vợ chồng cùng uống rượu cần trong lễ cưới. Ảnh: internet

Sau đám cưới, phải qua 1 mùa rẫy ( 1 năm ) người vợ mới được mang thai. Nếu mang thai trước, gia đình mới sẽ bị xử phạt theo Luật tục, phải nộp trâu cho làng để già làng làm Lễ xin với Yàng và đôi vợ chồng vi phạm sẽ bị đưa ra khỏi làng 3 năm. Sau 3 năm mới cho về sống trong làng.

Luật tục Bhnong còn quy định, trong gia đình, nếu người chồng, hoặc vợ bỏ nhau thì người gây ra phải nộp trâu cho làng mình sinh sống và đền cho người bị bỏ.

Ngày nay, cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội, với sự giao thoa, đan xen giữa các nền văn hóa các dân tộc, một số nghi thức lễ cưới truyền thống đã bị mất đi như nghi thức bắt chồng. Tuy nhiên, củi hứa hôn phần lớn vẫn còn giữ được ở nhiều làng, đây là nét độc đáo trong văn hóa truyền thống của người Bhnong.

Tóm lại, hôn nhân của người Bhnong rất coi trọng hình thức một vợ một chồng, trên sự tự nguyện, tìm hiểu, yêu thương của người con trai, con gái. Hôn nhân có tính chất bền vững. Ở người Bhnong, trường hợp ly hôn rất hiếm xảy ra. Người Bhnong không có tục thách cưới, dù tổ chức nhiều nghi thức nhưng đều tùy theo điều kiện, hoàn cảnh của mỗi gia đình. Đặc biệt, mỗi khi có lễ cưới, tất cả mọi người trong làng đều được vui chơi ăn uống bình đẳng, kể cả khách lạ ghé thăm làng và trên hết không yêu cầu mọi người phải có quà tặng cho cô dâu, chú rể.
Theo thegioidisan.vn

Có thể bạn quan tâm

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Hằng năm, vào ngày Mão tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân xã Đông Cuông, tỉnh Lào Cai rộn ràng tổ chức Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông. Đây là hoạt động truyền thống nhằm tổng kết một năm lao động, sản xuất, những người con quê hương, du khách bày tỏ lòng tri ân với Mẫu Thượng Ngàn, các đấng siêu nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Sáng 23/10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên tổ chức Khai mạc Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh, năm 2025. Sự kiện là hoạt động thiết thực nhằm chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025 - 2030; hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/1945 - 23/11/2025) và 80 năm Ngày Thể thao Việt Nam (27/3/1946 - 27/3/2026).

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Giữa nhịp sống hiện đại đang lan tỏa tới từng bản làng vùng cao, người Dao Tiền ở Bản Sưng, xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình cũ, nay thuộc tỉnh Phú Thọ) vẫn bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có nghi lễ cưới, một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, tín ngưỡng và đạo lý của cộng đồng.

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Chiều 20/10/2025, khoảnh khắc thiêng liêng và xúc động nhất trước thềm lễ hội Katê chính là khi cộng đồng người Chăm làng Hữu Đức (Phước Hữu, Khánh Hòa) trang trọng đón nhận y trang từ người anh em Raglai. Đây không chỉ là một nghi lễ, mà còn là một minh chứng sống động cho mối giao hảo bền chặt, độc đáo đã được trao truyền qua nhiều thế hệ trên mảnh đất đầy nắng và gió. 

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Những ngày này, từ các tuyến phố trung tâm cho đến tận các thôn bản nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Tuyên Quang đều rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ, băng rôn chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là kỳ Đại hội đầu tiên sau khi hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, là sự kiện chính trị trọng đại, thể hiện ý chí, niềm tin và khát vọng của gần 1,9 triệu đồng bào các dân tộc trong tỉnh cùng hướng tới tương lai.

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer tỉnh Cà Mau hiện có trên 32 nghìn hộ với gần 140 nghìn nhân khẩu, chiếm gần 6,5% dân số toàn tỉnh. Những ngày này, tại các địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, không khí chào đón lễ Sene Dolta, một trong những lễ hội truyền thống quan trọng và mang đậm bản sắc văn hóa của người Khmer, diễn ra rộn ràng. 

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Tại miền đất Quảng Ngãi, các làn điệu dân ca H’rê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc. Để những giai điệu này không bị lãng quên, vai trò của người phụ nữ dân tộc H’rê vô cùng to lớn. Họ là những nghệ nhân thầm lặng, miệt mài gìn giữ và lan tỏa tình yêu với âm nhạc truyền thống, biến những lời ca thành sợi dây kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ và hiện tại.

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Trong không gian bảng lảng khói sương của núi rừng, của bản làng, bên những ngôi nhà sàn gỗ, những mế (phụ nữ lớn tuổi), ẻm (cô gái trẻ) trong trang phục áo pắn (áo ngắn), váy dài quấn kết hợp với cạp váy dệt hoa văn tinh xảo, đeo tênh (thắt lưng), xà tích và vấn khăn trắng trên đầu. Tiếng chiêng mường vang vọng cùng lời mo rì rầm đưa con người về lại với cội nguồn, về với những giá trị cốt lõi từ ngàn xưa… Đó là văn hóa Mường, là di sản, kho báu tinh thần của cộng đồng người Mường Hòa Bình cũ, nay là tỉnh Phú Thọ.

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu là một nghi thức quan trọng trong lễ cưới của đồng bào Dao đỏ ở bản Nậm Sáng, xã Mường Than, tỉnh Lai Châu. Trải qua thời gian cùng những thăng trầm của lịch sử, đến nay, người Dao đỏ nơi đây vẫn giữ được nghi thức truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Cô dâu mặc trang phục truyền thống rực rỡ sắc màu. Đoàn đón dâu nhà trai phải chuẩn bị một đội kèn trống gồm 4 người, đây là phần không thể thiếu trong nghi lễ đón dâu. Tiếng kèn, trống, chiêng, chũm chọe để chào mừng và thông báo cho tổ tiên, đất trời về sự kiện trọng đại này.

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram tại ấp Cù Lao, xã Hưng Hội (Cà Mau) như một "bảo tàng mỹ thuật" thể hiện tài năng của các nghệ nhân Khmer. Ngôi chùa cũng là một trong những điểm đến văn hóa vô cùng độc đáo tại Cà Mau.

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Bắc Ninh là địa phương sở hữu di sản Thực hành Then được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong dòng chảy văn hóa xứ Kinh Bắc, làn điệu Then vang lên như tiếng gọi của núi rừng, vừa mộc mạc vừa tha thiết. Tại miền đất giàu truyền thống văn hiến này, Then được cộng đồng đón nhận, trân trọng và đưa vào đời sống như một nét đẹp văn hóa; góp phần làm phong phú thêm bức tranh đa sắc màu của vùng đất này.

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Sau khi hợp nhất, không gian phát triển du lịch của tỉnh Đắk Lắk được mở rộng, tạo cơ hội cho các đơn vị, doanh nghiệp du lịch, lữ hành, lưu trú kết nối tiềm năng, lợi thế ở khu vực Đông - Tây. Du khách được trải nghiệm nhiều cung bậc cảm xúc của biển xanh, cát trắng, nắng vàng và đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ cùng những bản sắc văn hóa đặc trưng của đồng bào miền núi.