Lễ cúng bản của cộng đồng dân tộc Lào ở Điện Biên

Không gian Lễ cúng bản của cộng đồng dân tộc Lào diễn ra dưới tán cây to nhiều năm tuổi, được cộng đồng cho là cây thiêng, giữ hồn bản, hồn mường. Ảnh: TTXVN phát
Không gian Lễ cúng bản của cộng đồng dân tộc Lào diễn ra dưới tán cây to nhiều năm tuổi, được cộng đồng cho là cây thiêng, giữ hồn bản, hồn mường. Ảnh: TTXVN phát

Dân tộc Lào là một trong 19 dân tộc trên địa bàn tỉnh Điện Biên, sinh sống tập trung ở 23 bản thuộc 9 xã của hai huyện Điện Biên và Điện Biên Đông. Tại xã Mường Nhà (huyện Điện Biên), dân tộc Lào sinh sống tập trung tại ba bản Na Khoang, Na Hôm và Trung Tâm.

Lễ cúng bản của cộng đồng dân tộc Lào ở Điện Biên ảnh 1Người dân sắp xếp, bày biện lễ vật trên các mâm cúng trong Lễ cúng bản của dân tộc Lào. Ảnh: TTXVN phát

Sau quá trình định cư, lập bản, người Lào ở đây đã xây dựng, gìn giữ, bảo tồn được một nền văn hóa rất phong phú, đa dạng với những nét văn hóa rất riêng, thể hiện qua phong tục, tập quán, các nghi lễ truyền thống, như: Lễ cúng bản, Lễ chọn đất làm nhà mới, Lễ mừng cơm mới, Lễ cầu mưa… Trong đó, Lễ cúng bản (Căm bản) diễn ra vào dịp đầu năm (theo lịch của cộng đồng dân tộc Lào) có ý nghĩa tưởng nhớ tổ tiên, cầu mong những điều may mắn, tốt đẹp cho bản làng. Lễ cúng bản còn phản ánh thái độ, văn hóa ứng xử và sự gắn bó mật thiết, mối quan hệ ràng buộc, hỗ trợ, hòa hợp của cộng người Lào với môi trường thiên nhiên.

* Cầu mong điều may mắn, tốt đẹp

Trước dịp diễn ra Lễ cúng bản, trưởng bản sẽ thông báo, họp bàn cùng dân bản để mọi người thu xếp thời gian, công việc trong gia đình, chuẩn bị đồ lễ, huy động người dân tham gia dọn dẹp vệ sinh làng bản, khu vực rừng thiêng, miếu thờ - nơi tổ chức lễ cúng bản.

Ngày tổ chức cúng bản, thầy mo cùng những người giúp việc sẽ đem đồ lễ ra nơi cúng bản để sắp đặt thành nhiều mâm cúng. Mỗi mâm có những sải vải trắng, vải kẻ và các thứ vòng tay, vòng cổ, bầu nước, rượu cần, trầu cau, các loại hoa, quả, sắp ong, bó thóc… Đến giờ tốt, ngày lành, thầy mo (thầy cúng) cùng đại diện là đàn ông của các gia đình trong bản rước lễ vật đến nơi thờ, cúng tại khu vực rừng thiêng và miếu thờ chung của cả bản. Đoàn rước vừa đi vừa đánh trống, chiêng. Đến miếu thờ chung của bản ở vị trí dưới tán cây to, cây thiêng - nơi giữ hồn bản, hồn mường, thầy cúng và mọi người bắt tay chuẩn bị mổ bò hoặc mổ lợn, làm những con vật hiến sinh để chế biến đồ chín bày lên mâm cúng.

Trong nhiều mâm cúng được bày biện, sắp đặt, có 3 mâm chính để cúng tổ tiên, thần linh…Khi các mâm lễ được chuẩn bị đầy đủ, thầy mo tiến hành châm lửa thắp nến sáp ong và tiến hành lễ thức, mời các vị thần, tổ tiên về dự lễ.

Nghi lễ cúng xong, dưới bóng mát của tán cây rừng thiêng, đại diện các hộ gia đình cùng hạ đồ lễ, quây quần bên nhau thụ lộc vui vẻ và chúc cho nhau sức khỏe, sự may mắn trong làm ăn, kinh tế, hứa nguyện sẽ xây dựng bản làng no ấm, tình nghĩa bản làng càng thân thiết, bền chặt, đoàn kết. Sau lễ cúng bản ở rừng thiêng, mọi người trở về bản để nghỉ ngơi, thăm thân, chúc phúc cho nhau và cùng tổ chức các trò chơi truyền thống, ca hát, vui múa.

Lễ cúng bản của người Lào sẽ diễn ra trong 5 ngày hoặc 4 ngày tùy theo năm đó bản làng mổ bò hay mổ lợn để làm lễ cúng. Trong những ngày diễn ra lễ cúng bản, mọi người, mọi nhà đều kiêng việc dệt vải, không mang vác cây xanh vào bản, không gánh nước mà chỉ xách nước bằng tay. Người Lào quan niệm làm như vậy, bản làng sẽ gặp may mắn, mùa màng sẽ bội thu, chăn nuôi thuận lợi.

Trong những ngày cúng bản, nhà “chủ áo” (người uy tín, đứng đầu bản mường) luôn chuẩn bị sẵn những chum rượu cần để làm lý mời các vị thần cai quản bản mường chung vui cùng dân bản. Sau lý mời rượu, già làng và thầy cúng sẽ nâng chén khai tiệc, chúc cho muôn dân trong bản khỏe mạnh, hạnh phúc.

Trưa cuối cùng của dịp Lễ cúng bản, tại nhà người đứng đầu bản mường, dân bản làm mâm lễ “tụ hồn” cho gia chủ và thầy cúng. Tại đây, đại diện các hộ gia đình sẽ làm lý, thực hiện lễ thức buộc chỉ cổ tay cho chủ nhà, thầy cúng kèm những lời chúc sức khỏe. Những người dân trong bản đã có con dâu, con rể sẽ được người đứng đầu bản mường và thầy mo cho làm lễ đổi tên. Từ đây họ không còn mang tên bố mẹ đặt mà sẽ dùng bằng tên do bản mường ban cho.

Đến chiều, dân bản sẽ cùng nhau dự bữa cơm liên hoan cộng đồng trong không khí đông vui, đầm ấm. Tại đây, mọi người trong bản cùng chúc nhau vui vẻ rồi hòa mình vào điệu múa truyền thống nhẹ nhàng, uyển chuyển nhưng có tính cố kết cộng đồng cao.

Lễ cúng bản của cộng đồng dân tộc Lào ở Điện Biên ảnh 2Không gian Lễ cúng bản của cộng đồng dân tộc Lào diễn ra dưới tán cây to nhiều năm tuổi, được cộng đồng cho là cây thiêng, giữ hồn bản, hồn mường. Ảnh: TTXVN phát

* Bảo tồn những sắc thái riêng vốn có

 Theo tài liệu nghiên cứu của Bảo tàng tỉnh Điện Biên còn lưu trữ, khoảng những năm 1900 có một đoàn người từ bản Na Há, xã Mường Lói (nay thuộc xã Phu Luông, huyện Điện Biên) đến thành lập bản Na Khoang (xã Mường Nhà, huyện Điện Biên). Sau một thời gian do đất rộng, người thưa, lại xảy ra biến cố dịch bệnh nên người dân trong bản Na Khoang đã chia đi các nơi khác.

Đến năm 1914, năm hộ dân sinh sống ở bản Xẻ, xã Mường Lói (xã Phu Luông) chuyển xuống, trong đó có 3 hộ người dân tộc Thái - những “hạt nhân” tiên phong đứng ra thành lập bản Na Phay (xã Mường Nhà), còn hai hộ người Lào tiếp tục vận động người Lào ở bản Na Há, bản Xẻ (xã Phu Luông) và một số hộ dân thân quen, anh em họ hàng bên nước Lào về (tổng cộng được gần 50 hộ) thành lập nên bản Na Khoang.

Năm 2008, do sự phát triển của số lượng hộ dân trong bản, bản Na Khoang lại chia tách, thành lập thêm hai bản là Na Hôm và Trung Tâm như ngày nay. Thời điểm năm 2015, người dân tộc Lào trên địa bàn tỉnh Điện Biên có gần 1.100 hộ với hơn 5.000 nhân khẩu.

Ông Lò Văn Biển, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Mường Nhà cho biết: “Na Khoang” theo nghĩa bản địa của cộng đồng dân tộc Lào là “ruộng được khai phá từ rừng trúc”. Nhiều năm qua, bản văn hóa Na Khoang đã xây dựng và duy trì, thực hiện được những quy ước, hương ước, những chuẩn mực trong hành vi ứng xử, đạo đức, lối sống của các thành viên trong cộng đồng, thể hiện tính cộng đồng rất cao. Những thiết chế bản làng tại bản Na Khoang nói riêng và các tiểu vùng văn hóa của cộng đồng dân tộc Lào nói chung đang hoạt động rất hiệu quả. Nhờ đó, người dân tộc Lào tại các bản sống rất đoàn kết, hòa thuận, sẵn sàng giúp đỡ nhau trong cuộc sống hằng ngày.

Lễ cúng bản là một nghi lễ truyền thống, chứa đựng những nét văn hóa độc đáo, đặc sắc về sinh hoạt tín ngưỡng, tập quán sản xuất và thái độ ứng xử với tự nhiên, thiên nhiên của người Lào. Do quá trình cộng cư giữa các dân tộc, một số phong tục, tập quán, văn hóa của các cộng đồng dân tộc trên địa bàn có sự tác động, giao thoa, ảnh hưởng với nhau không nhỏ. Tuy nhiên, Lễ cúng bản của người Lào vẫn được duy trì, bảo tồn và giữ được những sắc thái riêng vốn có.

Cũng theo ông Lò Văn Biển, định hướng lâu dài, địa phương sẽ đẩy mạnh công tác kiểm kê, phục dựng, bảo tồn, phát huy các lễ hội, phong tục truyền thống của các dân tộc trên địa bàn. Đồng thời, địa phương phối hợp với các cơ quan chức năng, phòng ban chuyên môn để hoàn tất hồ sơ xét duyệt, trình cấp có thẩm quyền để sớm đưa Lễ cúng bản và các phong tục, nghi lễ khác đủ điều kiện vào Danh mục Di sản Văn hóa phi vật thể của tỉnh và cao hơn.

Hải An

(TTXVN)

Có thể bạn quan tâm

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Tại miền đất Quảng Ngãi, các làn điệu dân ca H’rê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc. Để những giai điệu này không bị lãng quên, vai trò của người phụ nữ dân tộc H’rê vô cùng to lớn. Họ là những nghệ nhân thầm lặng, miệt mài gìn giữ và lan tỏa tình yêu với âm nhạc truyền thống, biến những lời ca thành sợi dây kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ và hiện tại.

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Trong không gian bảng lảng khói sương của núi rừng, của bản làng, bên những ngôi nhà sàn gỗ, những mế (phụ nữ lớn tuổi), ẻm (cô gái trẻ) trong trang phục áo pắn (áo ngắn), váy dài quấn kết hợp với cạp váy dệt hoa văn tinh xảo, đeo tênh (thắt lưng), xà tích và vấn khăn trắng trên đầu. Tiếng chiêng mường vang vọng cùng lời mo rì rầm đưa con người về lại với cội nguồn, về với những giá trị cốt lõi từ ngàn xưa… Đó là văn hóa Mường, là di sản, kho báu tinh thần của cộng đồng người Mường Hòa Bình cũ, nay là tỉnh Phú Thọ.

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu là một nghi thức quan trọng trong lễ cưới của đồng bào Dao đỏ ở bản Nậm Sáng, xã Mường Than, tỉnh Lai Châu. Trải qua thời gian cùng những thăng trầm của lịch sử, đến nay, người Dao đỏ nơi đây vẫn giữ được nghi thức truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Cô dâu mặc trang phục truyền thống rực rỡ sắc màu. Đoàn đón dâu nhà trai phải chuẩn bị một đội kèn trống gồm 4 người, đây là phần không thể thiếu trong nghi lễ đón dâu. Tiếng kèn, trống, chiêng, chũm chọe để chào mừng và thông báo cho tổ tiên, đất trời về sự kiện trọng đại này.

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram tại ấp Cù Lao, xã Hưng Hội (Cà Mau) như một "bảo tàng mỹ thuật" thể hiện tài năng của các nghệ nhân Khmer. Ngôi chùa cũng là một trong những điểm đến văn hóa vô cùng độc đáo tại Cà Mau.

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Bắc Ninh là địa phương sở hữu di sản Thực hành Then được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong dòng chảy văn hóa xứ Kinh Bắc, làn điệu Then vang lên như tiếng gọi của núi rừng, vừa mộc mạc vừa tha thiết. Tại miền đất giàu truyền thống văn hiến này, Then được cộng đồng đón nhận, trân trọng và đưa vào đời sống như một nét đẹp văn hóa; góp phần làm phong phú thêm bức tranh đa sắc màu của vùng đất này.

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Sau khi hợp nhất, không gian phát triển du lịch của tỉnh Đắk Lắk được mở rộng, tạo cơ hội cho các đơn vị, doanh nghiệp du lịch, lữ hành, lưu trú kết nối tiềm năng, lợi thế ở khu vực Đông - Tây. Du khách được trải nghiệm nhiều cung bậc cảm xúc của biển xanh, cát trắng, nắng vàng và đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ cùng những bản sắc văn hóa đặc trưng của đồng bào miền núi.

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Tây Ninh đang từng ngày gìn giữ và phát huy nghề truyền thống làm đầu lân cùng nghệ thuật múa lân sư rồng. Bằng đôi bàn tay khéo léo, các nghệ nhân tỉ mỉ tạo hình những chiếc đầu lân rực rỡ, hòa với nghệ thuật múa lân sư rồng trong các dịp lễ, Tết và chương trình nghệ thuật, tạo nên nét đẹp văn hóa gắn liền với đời sống tinh thần người dân, góp phần bảo tồn và lan tỏa bản sắc văn hóa đặc trưng của địa phương.

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Thôn Xí Thoại (xã Xuân Lãnh, tỉnh Đắk Lắk) được biết đến là nơi lưu giữ nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Ba Na. Không chỉ là nét đẹp văn hóa mang tính bản sắc, nghề dệt ở đây còn là điểm nhấn thu hút du khách trong hành trình khám phá bản sắc văn hóa.

Trải nghiệm nét văn hóa, truyền thống đặc trưng của các dân tộc

Trải nghiệm nét văn hóa, truyền thống đặc trưng của các dân tộc

Ngày 31/7, thông tin từ Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam cho biết, từ ngày 1 - 29/8/2025 tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) sẽ diễn ra nhiều hoạt động tháng 8 với chủ đề “Về Làng trải nghiệm nét văn hóa truyền thống”.

Thắp lửa truyền thống, đánh thức bản sắc văn hóa dân tộc S’tiêng

Thắp lửa truyền thống, đánh thức bản sắc văn hóa dân tộc S’tiêng

Đồng bào dân tộc S’tiêng với kho tàng văn hóa phong phú đang đứng trước thách thức trong việc gìn giữ và truyền dạy cho thế hệ mai sau. Trước thực trạng này, tại Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng sóc Bom Bo (xã Bom Bo, tỉnh Đồng Nai), chính quyền địa phương đang nỗ lực thắp lại ngọn lửa truyền thống, đánh thức tình yêu và ý thức bảo tồn văn hóa trong mỗi người trẻ.

Nghệ An: Giải mã nghi thức buộc chỉ cổ tay và lễ đặt tên của người Ơ Đu

Nghệ An: Giải mã nghi thức buộc chỉ cổ tay và lễ đặt tên của người Ơ Đu

Trải qua hàng trăm năm người Ơ Đu tại bản Văng Môn (xã Nga My, tỉnh Nghệ An) đã bảo lưu, gìn giữ và trao truyền được nhiều tập tục, nghi thức văn hóa, tín ngưỡng, nét sinh hoạt mang giá trị bản sắc văn hóa rất độc đáo, riêng có. Trong đó, nghi thức cột chỉ cổ tay và lễ đặt tên đều nằm trong Lễ đón tiếng sấm đầu năm, vốn là những nghi lễ tâm linh, tín ngưỡng độc đáo trong hệ thống lễ tục vòng đời của người Ơ Đu; thể hiện văn hóa ứng xử hài hòa giữa con người với thiên nhiên, hướng về cội nguồn, tri ân các vị tiền bối đã có công khai phá, bảo vệ bản mường, tạ ơn trời đất.

Đưa di sản vào đời sống đương đại, phát triển du lịch bền vững

Đưa di sản vào đời sống đương đại, phát triển du lịch bền vững

Ngày 14/7, tại xã Khổng Lào, Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lai Châu và UBND xã Khổng Lào tổ chức Lễ công bố Quyết định và trao chứng nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2025 cho tỉnh Lai Châu.

Đặc sắc nghệ thuật chế tác khèn Mông ở vùng cao Lào Cai

Đặc sắc nghệ thuật chế tác khèn Mông ở vùng cao Lào Cai

Với đồng bào Mông ở vùng cao Lào Cai, cây khèn là nhạc cụ truyền thống quan trọng và độc đáo không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Nghệ thuật chế tác khèn đã trở thành nghề truyền thống quan trọng được người Mông nơi rẻo cao gìn giữ và quảng bá sản phẩm tới du khách trong, ngoài nước.

Bảo tồn, phát triển văn hóa Khmer gắn với phát triển du lịch

Bảo tồn, phát triển văn hóa Khmer gắn với phát triển du lịch

Tại Bạc Liêu, đồng bào dân tộc Khmer có trên 78.000 người, chiếm 7,6% dân số. Đồng bào nơi đây có đời sống tinh thần phong phú với những ngôi chùa Khmer kiến trúc lộng lẫy, các loại hình nghệ thuật truyền thống và nhiều lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

Duy trì mức sinh thay thế, bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực

Duy trì mức sinh thay thế, bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực

Vĩnh Phúc hiện là một trong nhiều địa phương trên cả nước có mức sinh chênh lệch giữa các vùng, đối tượng ngày càng lớn. Trước tình hình đó, tỉnh đã nỗ lực triển khai các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình; từ đó đạt mức sinh thay thế, góp phần ổn định quy mô dân số.

Khai thác thế mạnh xuất khẩu sản phẩm nông - thủy sản có lợi thế cạnh tranh

Khai thác thế mạnh xuất khẩu sản phẩm nông - thủy sản có lợi thế cạnh tranh

Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Tiền Giang Lưu Văn Phi cho biết: Hiện nay, tỉnh nỗ lực khai thác những tiềm năng và thế mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông - thủy sản có lợi thế cạnh tranh; tích cực nắm bắt cơ hội, mở rộng thị trường, nhằm đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu bền vững, thu hút ngoại tệ.

'Chìa khóa' để bắt kịp xu thế cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4

'Chìa khóa' để bắt kịp xu thế cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4

Ngày 6/6, UBND tỉnh Lai Châu và Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông đã ký kết thỏa thuận hợp tác đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh giai đoạn 2025 - 2030.

Phát huy vai trò khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới

Phát huy vai trò khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới

Ngày 4/6, tại tỉnh Sóc Trăng, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Hậu Giang và thành phố Cần Thơ phối hợp tổ chức Hội nghị đóng góp ý kiến vào dự thảo Đề án sắp xếp, hợp nhất Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội và hội quần chúng 3 tỉnh, thành phố (hội nghị lần thứ 3).

Truyền thông Campuchia ca ngợi sức sống mới ở vùng đồng bào Khmer Nam Bộ

Truyền thông Campuchia ca ngợi sức sống mới ở vùng đồng bào Khmer Nam Bộ

Trong những ngày đầu tháng này, các phương tiện truyền thông Campuchia đăng tải nhiều chủ đề bài viết đính kèm hình ảnh đa dạng, giới thiệu về cuộc sống mới với nhiều khởi sắc, đổi thay toàn diện trong vùng đồng bào Khmer tại các tỉnh, thành vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.

Đẩy mạnh phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

Đẩy mạnh phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

Theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tiền Giang Trần Hoàng Nhật Nam, nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, địa phương đã tổ chức được mạng lưới 198 hợp tác xã nông nghiệp - thủy sản, thu hút gần 55.000 thành viên; giải quyết công ăn việc làm cho gần 2.000 lao động. Đến đầu tháng 6/2025, các hợp tác xã trên lĩnh vực nông nghiệp - thủy sản đã đạt doanh thu khoảng 140 tỷ đồng, tăng gần 25% so với cùng kỳ năm trước.