Lễ hội Nàng Hai của dân tộc Tày

Trong khuôn khổ các hoạt động Ngày hội “Sắc xuân trên mọi miền Tổ quốc”, tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội), đồng bào dân tộc Tày đến từ tỉnh Cao Bằng đã tái hiện lễ hội Nàng Hai, một trong những văn hóa tín ngưỡng đặc sắc của dân tộc mình.

Theo tín ngưỡng dân gian của người Tày, trên cung trăng có Mẹ Trăng và các nàng tiên. Mẹ Trăng cùng các nàng tiên hằng năm chăm lo bảo vệ mùa màng cho dân chúng. Lễ hội Nàng Hai được tổ chức với ý nghĩa tượng trưng cho hành trình lên trời đón Mẹ Trăng và các nàng tiên xuống vui hội trần gian, thăm thú ruộng đồng, nhà cửa, cuộc sống sinh hoạt hàng ngày và giúp trần gian trong công việc làm ăn sinh sống, phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, sinh sôi nảy nở.

DSC00222.JPG
Thầy Tào, Mẻ Cốc, Cường, Sở và các mụ nàng, mụ nọi và hai thanh niên thực hành nghi lễ. Ảnh: Hoàng Tâm

Ngoài ý nghĩa là một lễ hội cầu mùa lớn, lễ hội Nàng Hai còn phản ánh tục thờ Mẹ trong tín ngưỡng của người Tày. Người Tày có tục thờ Mẻ Bjoóc (Mẹ Hoa) và các nghi lễ gắn với quá trình sinh nở của người phụ nữ. Thế giới của Mẹ Hoa được thần tượng hóa như một cái cây, ở đó hoa vàng sẽ kết ra con trai, hoa bạc sẽ kết ra con gái... Xuất phát từ các quan niệm truyền thống về người Mẹ, kết hợp với quan niệm dân gian coi mặt trăng là chủ thể về thái âm (nữ tính) mà người Tày đã gắn trăng với vai trò của người mẹ lớn cai quản trần gian về nhiều việc, nhất là trong sản xuất nông nghiệp. Vì thế trong thần thoại của người Tày, Nàng trăng chính là con gái Vua trời, được cha giao cho trông coi công việc nhà nông ở cõi trần gian.

DSC00204.JPG
Lễ vật cúng ở nhà Nàng Hai. Ảnh: Hoàng Tâm

Đồng bào Tày chọn một bãi đất phẳng, rộng rãi làm nơi mở hội. Trên bãi căng vải dựng rạp gọi là trại mẻ mành. Nơi Nàng Hai ngồi làm lễ đặt ở trung tâm sân có lợp vải hoa và trải chiếu hoa. Trại mẻ mành dựng bằng cọc, trên lợp vải hoa quây thành hình chữ U bao quanh sân hội. Đầu bản và cuối bản dựng cổng chào lớn để đón khách. Các gia đình trong bản chuẩn bị các mâm cỗ mặn gồm các món ăn truyền thống để đón khách đến chơi hội và để thi trong ngày tổ chức lễ hội.

z5191144557267_13d75bee003a84cb512e0e95153516b3.jpg
Bánh trăng và hạt giống trong lễ cúng. Ảnh: Hoàng Tâm

Tham gia Lễ hội là Mẻ Cốc, Cường, Sở và các mụ nàng, mụ nọi, thầy Tào và thêm hai thanh niên khỏe mạnh làm khủ tiến có nhiệm vụ đi trước dẹp đường cho đoàn người hành lễ. Cường mặc áo vàng chít khăn vàng, Sở mặc áo đỏ chít khăn đỏ. Mẻ Cốc mặc áo dài chàm; các mụ nàng, mụ nọi mặc áo dài chàm đầu buộc dải lụa đỏ hoặc vàng. Hai khủ tiến mặc quần áo dân tộc, một người thắt khăn vàng, một người thắt khăn đỏ.

DSC00066.JPG
Thày Tào thực hiện nghi lễ trong lễ cúng. Ảnh: Hoàng Tâm

Dụng cụ chính gồm quạt giấy để múa, 2 bộ quần áo dài cũ (tượng trưng cho quần áo của người trần gian); 2 cành trúc dài trên ngọn có treo túi vải màu đựng trầu gọi là cỗ tiến; Thuyền gỗ: 7 cái (1 thuyền to và 6 thuyền nhỏ), một số thuyền hoa chuối.

DSC00271.JPG
Nàng Hai được mời nhập vào Cường, Sở. Ảnh: Hoàng Tâm

Lễ dâng cúng ở nhà Nàng Hai gồm có 3 mâm xôi màu tím (1 mâm của Mẹ Cốc, 2 mâm của hai Nàng Cường, Sở), 2 bồ đựng thóc giống, cây giống, 2 đĩa bánh quánh to (bánh nàng hai - làm bằng gạo nếp), 2 dậu thúc théc, 1 ngọn mía,1 sào hoa rừng (15 bó).

Lễ cúng thổ công gồm có 1 mâm xôi màu, 1 con gà luộc, 1 chai rượu.

DSC00304.JPG
Nàng Hai đã được nhập vào Cường, Sở. Ảnh: Hoàng Tâm

Lễ phá nhà Nàng Hai được tiến hành như sau: Sáng sớm Mẻ Cốc, Cường, Sở và các mụ nàng, mụ nọi, khủ tiến tập trung tại nhà Nàng Hai làm lễ. Sau khi thắp hương, Mẻ Cốc và các mụ nàng, mụ nọi sẽ hát khúc cầu nguyện mời Nàng Hai nhập vào Cường, Sở. Khi Nàng Hai đã nhập xong, hai nàng đứng dậy khoác áo cũ, đi giầy, treo hai túi đựng trầu lên ngực chuẩn bị rời khỏi chiếu ngồi. Mọi người thu dọn hoa và các đồ lễ để đưa ra sân hội (trại mẻ mành). Mẻ Cốc cầm ngọn mía đi đầu tiếp theo đến người cầm bát hương Nàng Hai, khủ tiến đi hai bên, lần lượt đến Cường, Sở và các mụ nàng, mụ nọi, vừa đi vừa hát khúc từ biệt. Đoàn người đi vòng quanh nhà Nàng Hai ba vòng, vừa đi vừa rung đổ nhà, kết thúc lễ phá nhà Nàng Hai.

DSC00298.JPG
Nàng Hai đã xuống và chào mọi người. Ảnh: Hoàng Tâm

Sau khi làm lễ phá nhà Nàng Hai, cả đoàn người có khủ tiến dẫn đầu đi ra miếu thổ công tạ lễ. Tại miếu thổ công, thầy tào làm chủ lễ xin âm dương xin phép mở hội và tiễn nàng Hai về trời. Đoàn người đến trước miếu hát khúc tạ ơn và chào thổ công. Sau đó đi ra trại mẻ mành. Sau đó thầy Tào ra trại mẻ mành làm phép cắm thẻ 4 góc sân hội để trừ tà cho lễ hội.

DSC00346.JPG
Trại mẻ mảnh được dưng lên để các mẹ và các nàng Trăng đi qua khi làm lễ. Ảnh: Hoàng Tâm

Tại lán Nàng Hai trong trại mẻ mành, mở đầu là nghi thức lễ mời Nàng Hai. Tiếp theo là nghi lễ “mời sluông”: Tất cả cùng hát khúc mời sluông vật quạt thật mạnh để sluông nhập vào Cường và Sở. Tiếp theo đến phần “Lên đường” cũng hát như nghi thức hàng đêm. Lúc này chia thành hai nhóm, một nhóm ngồi hát còn một nhóm do Mẻ Cốc dẫn đầu gồm khủ tiến, hai nàng Cường, Sở, các mụ nàng, mụ nọi cầm quạt múa sluông chầu đi vòng quanh trại mẻ mành. Sau khi thực hiện xong các điệu múa đoàn người ngồi xuống chiếu trong lán Nàng Hai để hát khúc lượn slương. Dọn đồ tế lễ lên thuyền phần này được thực hiện qua nội dung lời hát. Lễ khao hoa hát mời tất cả các mẹ trăng về dự hội dưới trần gian do Nàng Hai tổ chức. Kết thúc lễ hội hát khúc lễ tạ và hát khúc thu dọn sân hội.

DSC00429.JPG
Nghi lễ xung quanh lều Trăng để tiễn nàng Hai về trời. Ảnh: Hoàng Tâm

Mẻ Cốc cầm 3 nén hương, 1 nén cắm vào ống hương, 2 nén còn lại dắt lên đầu Cường và Sở. Đoàn người làm lễ lần lượt dứng dậy múa hát bài nhận cỗ. Cường và Sở buộc chiếc áo cũ lên ngang người, các nam nữ thanh niên dọn dẹp đồ lễ và bàn thờ.

Lễ gieo hạt: Cường và Sở cầm bồ hạt giống, cây giống vãi tung ra xung quanh sân hội. Mọi người vẫn hát hối thúc. Lễ phá bỏ trại mẻ mành Mẻ cốc cầm ngọn mía dẫn đường Cường và Sở đi vòng quanh nhà Nàng Hai ba vòng vừa đi vừa xô đổ nhà. Sau đó đoàn người đi vòng quanh trại mẻ mành xô đổ toàn bộ.

Lễ tiễn Nàng Hai: Tiếp theo đoàn người vừa hát vừa rời sân hội đi ra bờ suối làm lễ thả thuyền tiễn Nàng Hai rời trần gian. Toàn bộ đồ cúng lễ của Nàng Hai được đem ra bờ suối và sắp đặt như sau Bát hương nàng Hai đi trước, tiếp theo Thuyền lớn và dãy thuyền nhỏ, toàn bộ hoa rừng. Thầy Tào sẽ hành lễ cắm thẻ yểm tà khí. Đoàn người đến trước nơi đặt lễ hát khúc chia tay. Nàng Hai chia tay với các mụ nàng, mụ nọi, xé quạt chia cho các nàng. Lễ tiễn nàng Hai là cuộc chia tay quyến luyến giữa các nàng Hai với các mẹ Trăng và trần gian qua lời đối đáp dặn dò giữa Nàng Hai và các mụ nàng, mụ nọi, kết thúc bằng lễ thả thuyền, thả hoa.

DSC00022.JPG
Nghi lễ ngắm thuyền trăng. Ảnh: Hoàng Tâm

Cuối cùng là hú gọi hồn Mẻ Cốc và hồn Cường, Sở. Lúc này tất cả mọi người cùng hát, vật quạt thật mạnh để hối thúc hồn Nàng Hai xuất khỏi Cường và Sở. Thầy Tào làm phép thu lại hồn vía cho các Nàng. Lễ hội kết thúc.

z5191146258703_7aad191a1c73ab59ba0bee3954d979fd.jpg
Các điệu múa quạt tiễn đưa nàng Trăng quanh trại mùng mành. Ảnh: Hoàng Tâm

Trong lễ hội, ngoài các thủ tục đón tiễn đưa Nàng Hai, những điệu hát du dương làm say đắm người nghe thì phải kể đến những điệu múa của Nàng Hai và các mụ nàng, mụ nọi. Các điệu múa sử dụng trong lễ hội tuy không nhiều nhưng có vai trò nhất định tạo nên không khí cuốn hút của ngày hội.

DSC00517.JPG
Nghi thức vãi hạt giống trong lễ hội Nàng Hai để cầu mong mùa màng bội thu. Ảnh: Hoàng Tâm

Với lễ hội Nàng Hai, phần múa quạt và xem thuyền là một nghi lễ chính của lễ hội nhằm diễn tả đoàn người trần gian đưa lễ vật lên mường trời. Quạt được sử dụng làm đạo cụ chính trong khi diễn. Múa quạt do các mụ nàng, mụ nọi làm sluông tiến lễ vừa hát vừa thực hiện. Các điệu múa được sử dụng trong lễ hội đơn giản, mọi người có thể múa được dễ dàng, bao gồm 5 điệu múa: Múa quét, Múa cầu mùa, Múa chèo thuyền, Múa gập một nửa quạt, Múa gập quạt hoàn toàn.

DSC00559.JPG
Đoàn tiễn thả thuyền đưa Nàng Hai về trời. Ảnh: Hoàng Tâm

Mỗi điệu múa quạt đều quy định phải đi ba vòng quanh trại mùng mành, bắt đầu đi từ bên trái. Mẻ Cốc đi trước vừa đi vừa hát, khủ tiến cầm ngọn mía đi dẹp đường, tiếp đến là đội quân áo vàng của Cường và sau cùng là đội quân áo đỏ của Sở. Hình thức múa đơn giản nhưng có tính biểu đạt cao khiến nguời ta liên tưởng đến những nàng tiên trên trời với những đôi cánh tiên đã đi vào trong truyện cổ tích.

DSC00568.JPG
Nàng Hai đã về trời và xuất ra khỏi Cường và Sở. Lễ hội kết thúc tốt đẹp với hy vọng một năm mới mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu đến với bà con đồng bào dân tộc Tày. Ảnh: Hoàng Tâm

Lễ hội Nàng Hai thể hiện tâm tư, nguyện vọng của đồng bào dân tộc Tày để cầu mong mưa thuận gió hòa, đoàn kết và tôn trọng giữa những người cùng trong cộng đồng, đó là nét ứng xử rất văn hóa của người Tày cần được giữ gìn, phát huy và trao truyền cho thế hệ mai sau.

Hoàng Tâm

(Báo ảnh Dân tộc và Miền núi)
Dân tộc Tày

Tên gọi khác: Thổ.

Dân số: 1.626.392 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Nhóm địa phương: Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao và Pa Dí.

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).

Lịch sử: Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên.

Hoạt động sản xuất: Người Tày là cư dân nông nghiệp có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Họ có tập quán đập lúa ở ngoài đồng trên những máng gỗ mà họ gọi là loỏng rồi mới dùng dậu gánh thóc về nhà. Ngoài lúa nước người Tày còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả... Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến nay vẫn còn khá phổ biến. Các nghề thủ công gia đình được chú ý. Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo. Chợ là một hoạt động kinh tế quan trọng.

Ăn: Trước kia, ở một số nơi, người Tày ăn nếp là chính và hầu như gia đình nào cũng có ninh và chõ đồ xôi. Trong các ngày tết, ngày lễ thường làm nhiều loại bánh trái như bánh chưng, bánh giày, bánh gai, bánh dợm, bánh gio, bánh rán, bánh trôi, bánh khảo... Ðặc biệt có loại bánh bột hấp dẫn nhân bằng trứng kiến và cốm được làm từ thóc nếp non hơ lửa, hoặc rang rồi đem giã.

Mặc: Bộ y phục cổ truyền của người Tày làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không thêu thùa, trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài. Nhóm Ngạn mặc áo ngắn hơn một chút, nhóm Phén mặc áo màu nâu, nhóm Thu Lao quấn khăn thành chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm Pa Dí đội mũ hình mái nhà còn nhóm Thổ mặc như người Thái ở Mai Châu (Hòa Bình).

vna_potal_tuyen_quang_gin_giu_nghe_det_tho_cam_cua_nguoi_tay_o_thuong_nong_5693566.jpg
Phụ nữ Tày biết dệt vải, may quần áo từ khi mới 13-14 tuổi. Ảnh: Nam Sương - TTXVN

: Người Tày cư trú ở vùng thung lũng các tỉnh Ðông Bắc, từ Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang đến Lào Cai, Yên Bái. Họ thích sống thành bản làng đông đúc, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà.

Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn có bộ sườn làm theo kiểu vì kèo 4, 5, 6 hoặc 7 hàng cột. Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hay lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa.

Phương tiện vận chuyển: Với những thứ nhỏ, gọn người Tày thường cho vào dậu để gánh hoặc cho vào túi vải để đeo trên vai, còn đối với những thứ to, cồng kềnh thì dùng sức người khiêng vác hoặc dùng trâu kéo. Ngoài ra, họ còn dùng mảng để chuyên chở.

Quan hệ xã hội: Chế độ quằng là hình thức tổ chức xã hội đặc thù theo kiểu phong kiến sơ kỳ mang tính chất quý tộc, thế tập, cha truyền con nối.

Trong phạm vi thống trị của mình quằng là người sở hữu toàn bộ ruộng đất, rừng núi, sông suối... vì thế có quyền chi phối những người sống trên mảnh đất đó và bóc lột họ bằng tô lao dịch, bắt phải đến lao động không công và tô hiện vật, buộc phải cống nạp. Chế độ quằng xuất hiện từ rất sớm và tồn tại dai dẳng mãi đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Cưới xin: Nam nữ Tày được tự do yêu đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng hay không lại tuỳ thuộc vào bố mẹ hai bên và "số mệnh" của họ có hợp nhau hay không. Vì thế trong quá trình đi tới hôn nhân phải có bước nhà trai xin lá số của cô gái về so với lá số của con mình. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng.

Sinh đẻ: Khi có mang cũng như trong thời gian đầu sau khi đẻ, người phụ nữ phải kiêng cữ nhiều thứ khác nhau với ước muốn được mẹ tròn, con vuông, đứa bé chóng lớn, khoẻ mạnh và tránh được những vía độc hại.

Sau khi sinh được 3 ngày cúng tẩy vía và lập bàn thờ bà mụ. Khi đầy tháng tổ chức lễ ăn mừng và đặt tên cho trẻ.

Ma chay: Ðám ma thường được tổ chức linh đình với nhiều nghi lễ nhằm mục đích báo hiếu và đưa hồn người chết về bên kia thế giới. Sau khi chôn cất 3 năm làm lễ mãn tang, đưa hồn người chết lên bàn thờ tổ tiên. Hàng năm tổ chức cúng giỗ vào một ngày nhất định.

Nhà mới: Khi làm nhà phải chọn đất xem hướng, xem tuổi, chọn ngày tốt. Trong ngày vào nhà mới chủ gia đình phải nhóm lửa và giữ ngọn lửa cháy suốt đêm đến sáng hôm sau.

Thờ cúng: Người Tày chủ yếu thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra còn thờ cúng thổ công, vua bếp, bà mụ.

Lễ tết: Hàng năm có nhiều ngày tết với những ý nghĩa khác nhau. Tết Nguyên đán, mở đầu năm mới và tết rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm lịch, sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết rất đặc trưng cho dân nông nghiệp trồng lúa nước.

Lịch: Người Tày theo âm lịch.

Học: Chữ nôm Tày xây dựng trên mẫu tự tượng hình, gần giống chữ nôm Việt ra đời khoảng thế kỷ XV được dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng... Chữ Tày-Nùng dựa trên cơ sở chữ cái La-tinh ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa năm 80 được dùng trong các trường phổ thông cấp I vùng có người Tày, Nùng cư trú.

Văn nghệ: Người Tày có nhiều làn điệu dân ca như lượn, phong slư, phuối pác, phuối rọi, vén eng... Lượn gồm lượn cọi, lượn slương, lượn then, lượn nàng ới... là lối hát giao duyên được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng. Người ta thường lượn trong hội lồng tồng, trong đám cưới, mừng nhà mới hay khi có khách đến bản. Ngoài múa trong nghi lễ ở một số địa phương có múa rối với những con rối bằng gỗ khá độc đáo.

Chơi: Trong ngày hội lồng tồng ở nhiều nơi tổ chức ném còn, đánh cầu lông, kéo co, múa sư tử, đánh cờ tướng... Ngày thường trẻ em đánh quay, đánh khăng, đánh chắt, chơi ô...

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Tày

Có thể bạn quan tâm

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Những ngày này, từ các tuyến phố trung tâm cho đến tận các thôn bản nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Tuyên Quang đều rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ, băng rôn chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là kỳ Đại hội đầu tiên sau khi hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, là sự kiện chính trị trọng đại, thể hiện ý chí, niềm tin và khát vọng của gần 1,9 triệu đồng bào các dân tộc trong tỉnh cùng hướng tới tương lai.

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer tỉnh Cà Mau hiện có trên 32 nghìn hộ với gần 140 nghìn nhân khẩu, chiếm gần 6,5% dân số toàn tỉnh. Những ngày này, tại các địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, không khí chào đón lễ Sene Dolta, một trong những lễ hội truyền thống quan trọng và mang đậm bản sắc văn hóa của người Khmer, diễn ra rộn ràng. 

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Tại miền đất Quảng Ngãi, các làn điệu dân ca H’rê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc. Để những giai điệu này không bị lãng quên, vai trò của người phụ nữ dân tộc H’rê vô cùng to lớn. Họ là những nghệ nhân thầm lặng, miệt mài gìn giữ và lan tỏa tình yêu với âm nhạc truyền thống, biến những lời ca thành sợi dây kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ và hiện tại.

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Trong không gian bảng lảng khói sương của núi rừng, của bản làng, bên những ngôi nhà sàn gỗ, những mế (phụ nữ lớn tuổi), ẻm (cô gái trẻ) trong trang phục áo pắn (áo ngắn), váy dài quấn kết hợp với cạp váy dệt hoa văn tinh xảo, đeo tênh (thắt lưng), xà tích và vấn khăn trắng trên đầu. Tiếng chiêng mường vang vọng cùng lời mo rì rầm đưa con người về lại với cội nguồn, về với những giá trị cốt lõi từ ngàn xưa… Đó là văn hóa Mường, là di sản, kho báu tinh thần của cộng đồng người Mường Hòa Bình cũ, nay là tỉnh Phú Thọ.

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu là một nghi thức quan trọng trong lễ cưới của đồng bào Dao đỏ ở bản Nậm Sáng, xã Mường Than, tỉnh Lai Châu. Trải qua thời gian cùng những thăng trầm của lịch sử, đến nay, người Dao đỏ nơi đây vẫn giữ được nghi thức truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Cô dâu mặc trang phục truyền thống rực rỡ sắc màu. Đoàn đón dâu nhà trai phải chuẩn bị một đội kèn trống gồm 4 người, đây là phần không thể thiếu trong nghi lễ đón dâu. Tiếng kèn, trống, chiêng, chũm chọe để chào mừng và thông báo cho tổ tiên, đất trời về sự kiện trọng đại này.

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram tại ấp Cù Lao, xã Hưng Hội (Cà Mau) như một "bảo tàng mỹ thuật" thể hiện tài năng của các nghệ nhân Khmer. Ngôi chùa cũng là một trong những điểm đến văn hóa vô cùng độc đáo tại Cà Mau.

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Bắc Ninh là địa phương sở hữu di sản Thực hành Then được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong dòng chảy văn hóa xứ Kinh Bắc, làn điệu Then vang lên như tiếng gọi của núi rừng, vừa mộc mạc vừa tha thiết. Tại miền đất giàu truyền thống văn hiến này, Then được cộng đồng đón nhận, trân trọng và đưa vào đời sống như một nét đẹp văn hóa; góp phần làm phong phú thêm bức tranh đa sắc màu của vùng đất này.

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Sau khi hợp nhất, không gian phát triển du lịch của tỉnh Đắk Lắk được mở rộng, tạo cơ hội cho các đơn vị, doanh nghiệp du lịch, lữ hành, lưu trú kết nối tiềm năng, lợi thế ở khu vực Đông - Tây. Du khách được trải nghiệm nhiều cung bậc cảm xúc của biển xanh, cát trắng, nắng vàng và đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ cùng những bản sắc văn hóa đặc trưng của đồng bào miền núi.

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Tây Ninh đang từng ngày gìn giữ và phát huy nghề truyền thống làm đầu lân cùng nghệ thuật múa lân sư rồng. Bằng đôi bàn tay khéo léo, các nghệ nhân tỉ mỉ tạo hình những chiếc đầu lân rực rỡ, hòa với nghệ thuật múa lân sư rồng trong các dịp lễ, Tết và chương trình nghệ thuật, tạo nên nét đẹp văn hóa gắn liền với đời sống tinh thần người dân, góp phần bảo tồn và lan tỏa bản sắc văn hóa đặc trưng của địa phương.

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Thôn Xí Thoại (xã Xuân Lãnh, tỉnh Đắk Lắk) được biết đến là nơi lưu giữ nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Ba Na. Không chỉ là nét đẹp văn hóa mang tính bản sắc, nghề dệt ở đây còn là điểm nhấn thu hút du khách trong hành trình khám phá bản sắc văn hóa.

Trải nghiệm nét văn hóa, truyền thống đặc trưng của các dân tộc

Trải nghiệm nét văn hóa, truyền thống đặc trưng của các dân tộc

Ngày 31/7, thông tin từ Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam cho biết, từ ngày 1 - 29/8/2025 tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) sẽ diễn ra nhiều hoạt động tháng 8 với chủ đề “Về Làng trải nghiệm nét văn hóa truyền thống”.

Thắp lửa truyền thống, đánh thức bản sắc văn hóa dân tộc S’tiêng

Thắp lửa truyền thống, đánh thức bản sắc văn hóa dân tộc S’tiêng

Đồng bào dân tộc S’tiêng với kho tàng văn hóa phong phú đang đứng trước thách thức trong việc gìn giữ và truyền dạy cho thế hệ mai sau. Trước thực trạng này, tại Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng sóc Bom Bo (xã Bom Bo, tỉnh Đồng Nai), chính quyền địa phương đang nỗ lực thắp lại ngọn lửa truyền thống, đánh thức tình yêu và ý thức bảo tồn văn hóa trong mỗi người trẻ.

Nghệ An: Giải mã nghi thức buộc chỉ cổ tay và lễ đặt tên của người Ơ Đu

Nghệ An: Giải mã nghi thức buộc chỉ cổ tay và lễ đặt tên của người Ơ Đu

Trải qua hàng trăm năm người Ơ Đu tại bản Văng Môn (xã Nga My, tỉnh Nghệ An) đã bảo lưu, gìn giữ và trao truyền được nhiều tập tục, nghi thức văn hóa, tín ngưỡng, nét sinh hoạt mang giá trị bản sắc văn hóa rất độc đáo, riêng có. Trong đó, nghi thức cột chỉ cổ tay và lễ đặt tên đều nằm trong Lễ đón tiếng sấm đầu năm, vốn là những nghi lễ tâm linh, tín ngưỡng độc đáo trong hệ thống lễ tục vòng đời của người Ơ Đu; thể hiện văn hóa ứng xử hài hòa giữa con người với thiên nhiên, hướng về cội nguồn, tri ân các vị tiền bối đã có công khai phá, bảo vệ bản mường, tạ ơn trời đất.

Đưa di sản vào đời sống đương đại, phát triển du lịch bền vững

Đưa di sản vào đời sống đương đại, phát triển du lịch bền vững

Ngày 14/7, tại xã Khổng Lào, Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lai Châu và UBND xã Khổng Lào tổ chức Lễ công bố Quyết định và trao chứng nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2025 cho tỉnh Lai Châu.