Nghệ thuật sân khấu Dù kê của người Khmer

Nghệ thuật sân khấu Dù kê của người Khmer
Sân khấu Dù kê là tổng hòa các loại hình nghệ thuật, như: ca, múa, âm nhạc, vũ thuật, phục trang, hóa trang, hội họa và ẩm thực... mang đặc trưng riêng của người Khmer.

Hiện còn có ý kiến khác nhau về nguồn gốc ra đời của Sân khấu Dù kê, nhưng nhiều người cho rằng, nơi khai sinh ra Sân khấu Dù kê chính là vùng đất Ba Sắc (Sóc Trăng) và người có công lớn trong việc phát triển nghệ thuật Sân khấu Dù kê của người Khmer Nam bộ chính là ông Lý Cuôn (Chhà Kọn).

Để bắt đầu buổi biểu diễn Dù kê, người diễn phải thực hiện nghi thức cúng Tổ tại gia trang trọng và bài bản để cầu mong các vị thần phù hộ, ban phước lành cho chuyến lưu diễn gặp nhiều may mắn, bình an vô sự,…

Nhạc cụ sử dụng trong lễ cúng Tổ chủ yếu là trống đôi lớn, trống mẹ, trống con, trống đực và trống cái, cùng với cồng Khmốs. Khi cúng Tổ thì trống đôi lớn và cồng Khmốs đánh liên hồi 3 lần cho mỗi lần khấn vái, còn trống mẹ, trống con, trống đực và trống cái thì đánh đệm tiết tấu cho mỗi lần hát. Hát cúng Tổ gồm 03 bài hát chính: “Lăm muôi - Lăm pi”, “Ô ra Chhưng Chhưng”, “Đok Chom pi”. Sau khi kết thúc cúng Tổ, mọi người cùng hát bài kết “SariKakeo”.

Trước khi mở màn buổi diễn, dàn nhạc hòa tấu một số bản nhạc dân ca Khmer truyền thống. Khi đến giờ diễn tuồng, tất cả diễn viên đều phải hát một bài “Chum rép” ở bên trong sân khấu với ý nghĩa để cúng Tổ lại và báo hiệu đêm diễn bắt đầu. Sau đó, bên trong sân khấu cất lên lời chào và giới thiệu, quảng cáo vở diễn trong đêm; diễn viên cùng hát một bài ca bắt buộc, gọi là “Hum rôông”; vai hề ra trước màn chào khán giả, vừa biểu diễn tấu hài, vừa tóm tắt cốt truyện với khán giả; tiếp đến diễn viên biểu diễn một số điệu múa, như: “Sa ri ka keo”, múa Măm bô, múa muỗng... Khi kết thúc các điệu múa này, vở diễn mới bắt đầu.

Xưa kia, bên trong sân khấu Dù kê luôn có người nhắc tuồng, gọi là thầy tuồng, với nhiệm vụ chính là phân đoạn, phân cảnh, phân màn và nhắc lời thoại cho các vai diễn. Âm điệu ngôn ngữ trong diễn tuồng phải bảo đảm tính đặc thù, giọng thoại phải trầm bổng, chậm rãi và kéo dài, nhất là đối với các nhân vật chính diện. Tất cả các nhân vật ra biểu diễn, khi xuất hiện lần đầu đều phải thể hiện các động tác vũ đạo thích ứng với từng nhân vật theo quy ước đã định sẵn, sau đó tự giới thiệu về nhân vật của mình đang diễn rồi mới hát bài ca dành cho nhân vật đó. Kết thúc vở diễn, tất cả các diễn viên đều phải ra sân khấu hát chung một bài chào khán giả. Ngày nay, quy định này đã được thay đổi, biểu diễn theo kịch bản với nội dung và lời thoại đã được viết và dàn dựng sẵn, kết thúc bằng vài bài hòa tấu của dàn nhạc để tiễn khán giả.

- Tích tuồng của Sân khấu Dù kê thường được khai thác từ cốt truyện cổ tích, thần thoại dân gian Khmer. Về sau, Dù kê còn diễn cả tích tuồng của người Hoa và diễn chung một số vở diễn với sân khấu cải lương. Ngoài ra, còn có những vở diễn mang đề tài văn hóa, xã hội, cách mạng, ngợi ca người lao động, kêu gọi đoàn kết dân tộc, chống giặc ngoại xâm, áp bức bóc lột,… Cũng có những vở diễn các tích truyện tương tự truyện cổ tích Việt Nam. Dù có diễn tích tuồng gì thì nội dung vở diễn thường được phân chia thành hai phái rõ rệt, tiêu biểu cho hai loại người trong xã hội: “chính diện” và “phản diện”, đại diện cho hai phái “thiện” và “ác”. Theo quan niệm Phật giáo, trong xã hội người Khmer luôn tôn vinh cái tốt, lên án cái xấu, “thiện thắng tà”, “làm điều lành, tránh điều dữ”, “làm điều phải, tránh điều sai”.  

- Vũ đạo, vũ thuật trong Dù kê phát triển trên cơ sở võ thuật của dân tộc nhưng được khái quát hóa đạt đến trình độ nghệ thuật cao và phân chia ra từng nhóm động tác vũ đạo, vũ thuật cho từng nhóm nhân vật biểu diễn. Có 13 nhóm động tác vũ đạo lớn cơ bản, gồm các loại động tác vũ đạo dành cho người (10 loại động tác), vũ đạo dành cho chằn (02 động tác), vũ đạo dành cho con vật (01 động tác); 04 nhóm động tác vũ đạo nhỏ cơ bản, gồm: vũ đạo con khỉ, con cá, con voi, con rồng; và 06 nhóm động tác vũ thuật cơ bản để biểu diễn trong giao đấu của các nhân vật, gồm: vũ thuật đấu bằng tay, dao ngắn, đấu kiếm, đấu bằng gậy, đấu bằng đao và bằng cây cung.

- Nghệ thuật hóa trang trong Dù kê chủ yếu là hình thức tô phấn, thoa son, vẽ mặt theo những quy định bắt buộc riêng, phải đậm và màu sắc rõ ràng. Việc hóa trang phải theo tính cách của nhân vật, ngoài màu trắng nền còn có màu đỏ hồng (cho con người); màu đỏ, đen (vai chằn, vai động vật có tính phép thuật); màu xanh két (vai thần tiên)… Có 03 hình thức hóa trang:

+ Hóa trang vai người: tùy theo đặc tính nam, nữ, già, trẻ, tính cách, vai chính diện, phản diện. Vai phản diện hầu như không vẽ râu, cơ bản chỉ sử dụng màu đen vẽ chân mày, màu đỏ đậm, nhạt cho khuôn mặt, kết hợp với động tác biểu diễn. Đối với màu sắc thể hiện tính cách nhân vật, thường thì màu đỏ chiếm ưu thế.

+ Hóa trang vai chằn: luôn phải ngậm một đôi răng nanh giả, có thể nhe ra, thụt vào. Đây là hóa trang cầu kỳ, phức tạp nhất, có những qui định rõ ràng để phân biệt cho từng tính cách của vai chằn. Có 05 hình thức cơ bản là:

Hóa trang nam vai chằn có phép thuật thì thường sử dụng màu đỏ chiếm ưu thế cùng với màu đen; nam vai chằn không có phép thuật thì sử dụng hài hòa ba màu chủ yếu là: trắng, đỏ và đen; nam vai chằn có tính cách hướng thiện, sử dụng hài hòa giữa ba màu đỏ, đen và xanh két; nam vai quân sĩ chằn chủ yếu sử dụng 02 màu đen và trắng; nữ vai chằn (luôn có tính cách ác độc, hầu như không có tính cách thiện) sử dụng nhiều màu đỏ, vẽ chân mày màu xanh két và màu vàng.

Ngoài ra, còn có loại hóa trang cho các vai chằn lai người (hóa trang nửa mặt chằn và nửa mặt người), chằn lai với yêu tinh. Vai con gái chằn bao giờ cũng hóa trang khuôn mặt đẹp, không thua gì các vai công chúa, tiểu thư con nhà lành.

+ Hóa trang các vai con vật phức tạp không kém vai chằn nhưng dễ thể hiện đặc tính của từng con vật trong vở diễn khi kết hợp với phục trang.

- Trang phục trong sân khấu Dù kê có hai dạng:

+ Trang phục dành cho nam giới với các vai: vua, chúa, hoàng tử, chằn, đại bàng, con rồng có kết cấu phức tạp, pha trộn nhiều màu sắc ảnh hưởng trang phục sân khấu hát Tiều của người Hoa và cải lương của người Kinh.

Trang phục vai chằn cũng tương tự như vai vua, nhưng thô, rộng thùng thình, màu sắc chủ yếu là đen hoặc nâu sậm, vải thường có bông to hoặc có sọc như vẩy rồng để thể hiện tính oai nghi, trên đầu có một miếng vải cứng thêu hoa bằng kim sa (biểu tượng cho đầu rồng) cột ở trán làm mũ.

+ Các bộ trang phục dành cho nữ giới là các vai hoàng hậu, công chúa, tiểu thơ, vai con gái chằn đều phải óng ánh, rực rỡ, đậm nét người Khmer.

- Về sân khấu, cảnh trí: từ “sân khấu dàn bầu” cải tiến lên phông sơn thủy, đến nay gần như thay đổi hoàn toàn, không còn sử dụng những tấm phông cảnh sơn thủy kéo lên, thả xuống như trước đây nữa, mà được thay thế bằng những phông cảnh bài trí theo ý đồ của đạo diễn do họa sĩ thiết kế, kết hợp với ánh sáng hiện đại, phù hợp với nội dung kịch bản, phong phú về sắc thái. Dù vở diễn mang nội dung mới, phản ánh xã hội thực tại, trang trí sân khấu vẫn luôn vận dụng vốn cổ làm nền tảng cho mảng trang trí chính nên cơ bản vẫn giữ được bản sắc riêng.

- Về âm nhạc: có đặc trưng riêng, có bài bản, khuôn mẫu, quy củ rõ ràng, sử dụng cho từng đối tượng, tính cách nhân vật cụ thể. Tính chất, nội dung âm nhạc rất phong phú, đa dạng bởi ngoài âm nhạc chính thống dân tộc Khmer, âm nhạc Dù kê còn tiếp nhận từ nguồn âm nhạc của các loại hình nghệ thuật khác cũng như ảnh hưởng của một số tộc người khác, như người Hoa, Lào, Myanmar và cả bài ca, bản nhạc của châu Âu, trong đó chủ yếu là Pháp, nhưng được Khmer hóa một cách tinh vi, khéo léo khó nhận biết được.

Nhạc cụ trong sân khấu Dù kê chủ yếu là bộ dây và bộ gõ, với nhạc cụ không thể thiếu là “trô u” (đàn gáo).

Bên cạnh dàn nhạc Dù kê chính, còn có dàn nhạc phụ là dàn nhạc Pinpet (dàn nhạc ngũ âm) đảm nhận vai trò phụ diễn như tấu nhạc “câu” khán giả trước khi biểu diễn tuồng và sử dụng ở những chỗ có thần, thánh, như thần Têvađa, thần Prum hoặc những nhân vật huyền bí để phù hợp với tính cách nhân vật.

Ngày nay, để thích ứng với một số bản nhạc mới, dàn nhạc hiện đại được hình thành thay thế cho dàn nhạc Pinpet truyền thống. Chức năng dàn nhạc này để hòa tấu thu hút khán giả trước khi diễn tuồng, đệm cho các bài bản Dù kê mới có ảnh hưởng từ châu Âu (Pháp), sử dụng phục vụ cho chương trình phụ diễn.

- Các bài hát Dù kê có sự phân chia rõ ràng, với điệu thức dành cho giọng nam và giọng nữ. Theo khảo sát, có tất cả 163 làn điệu, bài hát ở các thể loại khác nhau, bao gồm: 34 bài hát Dù kê Khmer Nam bộ chính thống; 22 bài hát có nguồn gốc ảnh hưởng từ thể loại sân khấu hát Tiều của người Hoa; 16 bài hát có nguồn gốc ảnh hưởng từ bài ca, bản nhạc của châu Âu, mà chủ yếu là Pháp; 91 bài hát có nguồn gốc ảnh hưởng từ loại hình nghệ thuật sân khấu khác, như: sân khấu Dì kê, Mahôri (Campuchia) và một ít bài ảnh hưởng từ các nước trong khu vực, như Lào, Thái Lan, Singapore và Myanmar. Tất cả các làn điệu, bài hát dù chịu ảnh hưởng từ nền văn hóa khác đều được Dù kê hóa mang âm hưởng, sắc thái của người Khmer rất đậm nét, hầu hết các bài ca khi kết thúc đều có một điểm chung là hò đệm của tập thể bên trong sân khấu.

Trong 163 làn điệu, bài ca của sân khấu Dù kê, có thể phân chia thành 5 nhóm theo tính chất khác nhau: nhóm bài bản hát tập thể khi cúng Tổ; nhóm thể hiện tâm trạng vui của các nhân vật; nhóm thể hiện tâm trạng buồn của các nhân vật; nhóm thể hiện tâm trạng giận hờn của các nhân vật, nhóm về tình yêu...

Thể loại bài bản Dù kê cũng phong phú, đa dạng, gồm các bài Lôm; bài Nô kô rek; bài bản cho giọng nữ, giọng nam, nhân vật đặc thù như thợ săn, thần tiên, chằn nam, chằn nữ, vai hề,…

- Múa trong biểu diễn Dù kê là một thể thức cần phải có của đêm diễn, vở diễn gồm những điệu múa, đoạn múa thuần túy, như: múa hầu rượu, múa chúc mừng, múa được mùa, múa luyện quân,… và múa góp phần tạo dựng tính cách nhân vật, tiêu biểu là múa chằn. Múa trong Sân khấu Dù kê hình thành hai tuyến múa khác nhau: múa của những vai chính diện và phản diện.

+ Vai chính diện như tầng lớp lao động thường là môtíp múa dân gian quen thuộc: hoàng tử, công chúa, vua, quan,… thường tiếp thu múa cổ điển, tạo hình mực thước như tranh tượng. Múa và tạo hình cơ thể vai chính diện, bất kể kiểu nào đều có một điểm chung là “đĩnh đạc, trì chí và mềm mại, duyên dáng…”.

+ Ngược lại, những vai phản diện như chằn hoặc quan ác, tướng ác,… điệu múa được cường điệu và rất dữ dằn. Chằn trên sân khấu Dù kê là một nhân vật sinh động, kết hợp giữa động tác sinh hoạt, múa và võ thuật.

Sân khấu Dù kê Khmer Nam bộ có sức sống và vị thế quan trọng trong đời sống tinh thần của bà con người Khmer. Nghệ thuật sân khấu Dù kê được hình thành qua sự giao lưu văn hóa giữa cộng đồng các dân tộc, được Dù kê hóa một cách nhuần nhuyễn, đầy tính sáng tạo và hấp dẫn.

Nghệ thuật sân khấu Dù kê vừa phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí, vừa giúp người xem cảm nhận được điều hay lẽ phải, nhận thức được thiện - ác, chính - tà, định hướng cho con người tự hoàn thiện mình và tiến tới xã hội lành mạnh, tiến bộ. Đó là món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống của cộng đồng người Khmer. Với những giá trị đặc biệt của loại hình nghệ thuật này, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã quyết định đưa Nghệ thuật Sân khấu Dù kê vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, loại hình Nghệ thuật trình diễn dân gian.
Theo dsvh.gov.vn

Có thể bạn quan tâm

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Hằng năm, vào ngày Mão tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân xã Đông Cuông, tỉnh Lào Cai rộn ràng tổ chức Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông. Đây là hoạt động truyền thống nhằm tổng kết một năm lao động, sản xuất, những người con quê hương, du khách bày tỏ lòng tri ân với Mẫu Thượng Ngàn, các đấng siêu nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Sáng 23/10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên tổ chức Khai mạc Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh, năm 2025. Sự kiện là hoạt động thiết thực nhằm chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025 - 2030; hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/1945 - 23/11/2025) và 80 năm Ngày Thể thao Việt Nam (27/3/1946 - 27/3/2026).

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Giữa nhịp sống hiện đại đang lan tỏa tới từng bản làng vùng cao, người Dao Tiền ở Bản Sưng, xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình cũ, nay thuộc tỉnh Phú Thọ) vẫn bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có nghi lễ cưới, một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, tín ngưỡng và đạo lý của cộng đồng.

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Chiều 20/10/2025, khoảnh khắc thiêng liêng và xúc động nhất trước thềm lễ hội Katê chính là khi cộng đồng người Chăm làng Hữu Đức (Phước Hữu, Khánh Hòa) trang trọng đón nhận y trang từ người anh em Raglai. Đây không chỉ là một nghi lễ, mà còn là một minh chứng sống động cho mối giao hảo bền chặt, độc đáo đã được trao truyền qua nhiều thế hệ trên mảnh đất đầy nắng và gió. 

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Những ngày này, từ các tuyến phố trung tâm cho đến tận các thôn bản nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Tuyên Quang đều rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ, băng rôn chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là kỳ Đại hội đầu tiên sau khi hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, là sự kiện chính trị trọng đại, thể hiện ý chí, niềm tin và khát vọng của gần 1,9 triệu đồng bào các dân tộc trong tỉnh cùng hướng tới tương lai.

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer tỉnh Cà Mau hiện có trên 32 nghìn hộ với gần 140 nghìn nhân khẩu, chiếm gần 6,5% dân số toàn tỉnh. Những ngày này, tại các địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, không khí chào đón lễ Sene Dolta, một trong những lễ hội truyền thống quan trọng và mang đậm bản sắc văn hóa của người Khmer, diễn ra rộn ràng. 

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Tại miền đất Quảng Ngãi, các làn điệu dân ca H’rê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc. Để những giai điệu này không bị lãng quên, vai trò của người phụ nữ dân tộc H’rê vô cùng to lớn. Họ là những nghệ nhân thầm lặng, miệt mài gìn giữ và lan tỏa tình yêu với âm nhạc truyền thống, biến những lời ca thành sợi dây kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ và hiện tại.

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Trong không gian bảng lảng khói sương của núi rừng, của bản làng, bên những ngôi nhà sàn gỗ, những mế (phụ nữ lớn tuổi), ẻm (cô gái trẻ) trong trang phục áo pắn (áo ngắn), váy dài quấn kết hợp với cạp váy dệt hoa văn tinh xảo, đeo tênh (thắt lưng), xà tích và vấn khăn trắng trên đầu. Tiếng chiêng mường vang vọng cùng lời mo rì rầm đưa con người về lại với cội nguồn, về với những giá trị cốt lõi từ ngàn xưa… Đó là văn hóa Mường, là di sản, kho báu tinh thần của cộng đồng người Mường Hòa Bình cũ, nay là tỉnh Phú Thọ.

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu là một nghi thức quan trọng trong lễ cưới của đồng bào Dao đỏ ở bản Nậm Sáng, xã Mường Than, tỉnh Lai Châu. Trải qua thời gian cùng những thăng trầm của lịch sử, đến nay, người Dao đỏ nơi đây vẫn giữ được nghi thức truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Cô dâu mặc trang phục truyền thống rực rỡ sắc màu. Đoàn đón dâu nhà trai phải chuẩn bị một đội kèn trống gồm 4 người, đây là phần không thể thiếu trong nghi lễ đón dâu. Tiếng kèn, trống, chiêng, chũm chọe để chào mừng và thông báo cho tổ tiên, đất trời về sự kiện trọng đại này.

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram tại ấp Cù Lao, xã Hưng Hội (Cà Mau) như một "bảo tàng mỹ thuật" thể hiện tài năng của các nghệ nhân Khmer. Ngôi chùa cũng là một trong những điểm đến văn hóa vô cùng độc đáo tại Cà Mau.

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Bắc Ninh là địa phương sở hữu di sản Thực hành Then được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong dòng chảy văn hóa xứ Kinh Bắc, làn điệu Then vang lên như tiếng gọi của núi rừng, vừa mộc mạc vừa tha thiết. Tại miền đất giàu truyền thống văn hiến này, Then được cộng đồng đón nhận, trân trọng và đưa vào đời sống như một nét đẹp văn hóa; góp phần làm phong phú thêm bức tranh đa sắc màu của vùng đất này.

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Sau khi hợp nhất, không gian phát triển du lịch của tỉnh Đắk Lắk được mở rộng, tạo cơ hội cho các đơn vị, doanh nghiệp du lịch, lữ hành, lưu trú kết nối tiềm năng, lợi thế ở khu vực Đông - Tây. Du khách được trải nghiệm nhiều cung bậc cảm xúc của biển xanh, cát trắng, nắng vàng và đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ cùng những bản sắc văn hóa đặc trưng của đồng bào miền núi.

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Tây Ninh đang từng ngày gìn giữ và phát huy nghề truyền thống làm đầu lân cùng nghệ thuật múa lân sư rồng. Bằng đôi bàn tay khéo léo, các nghệ nhân tỉ mỉ tạo hình những chiếc đầu lân rực rỡ, hòa với nghệ thuật múa lân sư rồng trong các dịp lễ, Tết và chương trình nghệ thuật, tạo nên nét đẹp văn hóa gắn liền với đời sống tinh thần người dân, góp phần bảo tồn và lan tỏa bản sắc văn hóa đặc trưng của địa phương.

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Thôn Xí Thoại (xã Xuân Lãnh, tỉnh Đắk Lắk) được biết đến là nơi lưu giữ nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Ba Na. Không chỉ là nét đẹp văn hóa mang tính bản sắc, nghề dệt ở đây còn là điểm nhấn thu hút du khách trong hành trình khám phá bản sắc văn hóa.