Là một trong 7 tấm gương đội viên tiêu biểu tỉnh Lạng Sơn, em Nguyễn Thu Hà (dân tộc Tày, học sinh lớp 8, Trường Tiểu học và Trung học Cơ sở xã Cường Lợi, huyện Đình Lập) sẽ tham dự Đại hội Cháu ngoan Bác Hồ toàn quốc lần thứ X - năm 2025 tại Thủ đô Hà Nội (từ ngày 13 - 15/5).

Em Nguyễn Thu Hà chia sẻ, tham gia hoạt động Đội, em được các thầy cô trong trường, anh chị Đoàn Thanh niên hướng dẫn, truyền đạt nhiều kỹ năng bổ ích. Em đã học tập, tích lũy được nhiều kiến thức, kinh nghiệm hữu ích và mạnh dạn, tự tin thể hiện bản thân hơn. Hoạt động Đội là sân chơi bổ ích, góp phần giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, bồi đắp lý tưởng cách mạng cho đội viên; đồng thời tạo môi trường học tập và rèn luyện vui tươi, lành mạnh, động viên học sinh phấn đấu đạt kết quả giáo dục toàn diện.
Khi được tín nhiệm giao làm Liên đội trưởng Trường Tiểu học và Trung học Cơ sở xã Cường Lợi, Hà ý thức được mình phải gương mẫu, đi đầu trong học tập, rèn luyện để không phụ lòng tin của thầy cô, gia đình, bạn bè. Với sự hướng dẫn, giúp đỡ của thầy cô giáo và các anh chị Đoàn Thanh niên, Liên đội nhà trường đã tổ chức hoạt động Đội theo hướng thiết thực, hiệu quả gắn với đẩy mạnh tổ chức những sân chơi lành mạnh; tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống, truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc; truyền thống của tổ chức Đội cho thiếu nhi, thông qua các phong trào "Thiếu nhi Việt Nam thi đua làm theo 5 điều Bác Hồ dạy"...
Các hoạt động của Liên đội đi vào những nội dung cụ thể, thiết thực, phù hợp như: Tổ chức Ngày hội "Thiếu nhi vui khỏe", tuyên dương "Dũng sĩ nghìn việc tốt"; tổ chức Ngày hội "Thiếu nhi vui khỏe - tiến bước lên Đoàn", phát động phong trào thi đua "Thiếu nhi Việt Nam làm theo 5 điều Bác Hồ dạy"; tổ chức Cuộc vận động "Vì đàn em thân yêu". Liên đội cũng hỗ trợ, động viên học sinh nghèo có hoàn cảnh khó khăn vươn lên trong học tập thông qua các hoạt động tặng quà, trao tặng dụng cụ học tập...
Song song với hoạt đội Đội, Hà chú trọng đến nhiệm vụ học tập, rèn luyện; chú ý nghe thầy cô giảng bài, ghi chép, vận dụng lý thuyết đã học để ứng dụng làm bài tập đầy đủ; giúp đỡ bạn bè cùng tiến bộ. Hà đã tự đọc, nghiên cứu thêm nhiều tài liệu học tập, những quyển sách hay về cuộc sống để bổ sung, tích lũy kiến thức, phục vụ cho học tập.
Nhờ những nỗ lực không ngừng, từ lớp 1 đến lớp 8, Hà luôn là học sinh xuất sắc của trường. Từ năm học 2020 - 2021 đến học kỳ 1 năm học 2024 - 2025, em đều xuất sắc đạt danh hiệu học sinh giỏi và đạt danh hiệu Cháu ngoan Bác Hồ cấp tỉnh năm 2025. Đặc biệt, Hà đã đạt giải Nhất cuộc thi lập trình, điều khiển robot cho học sinh Trung học Cơ sở cấp tỉnh năm học 2023 - 2024 và giải Nhất cuộc thi vô địch quốc gia Việt Nam Stem, AI&Robotics năm 2024. Hà được Hội đồng Đội Trung ương tặng Bằng khen "Đội thi Stem, AI&Robotics" đoạt giải Nhất cấp quốc gia năm 2024...

Được chọn là đại biểu dự Đại hội Cháu ngoan Bác Hồ toàn quốc lần thứ X năm 2025, em Nguyễn Thu Hà xúc động: "Em cảm thấy vinh dự, tự hào. Đây là niềm vui rất lớn đối với em. Để xứng đáng là cháu ngoan Bác Hồ và là đội viên tiêu biểu, gương mẫu, em tiếp tục nỗ lực, phấn đấu học tập, rèn luyện, tham gia công tác Đội, trở thành công dân có ích, góp sức xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh…
Với những thành tích xuất sắc, Nguyễn Thu Hà đã được Hội đồng Đội tỉnh Lạng Sơn tặng Bằng khen do đã có thành tích xuất sắc trong công tác Đội và phong trào thiếu nhi, giai đoạn 2020 - 2025.
Chị Lê Thùy Dung, Phó Bí thư Tỉnh đoàn, Chủ tịch Hội đồng Đội tỉnh Lạng Sơn đánh giá, em Nguyễn Thu Hà là Chỉ huy Đội tiêu biểu cấp tỉnh, là Liên đội trưởng gương mẫu, tiên phong, có thành tích xuất sắc trong học tập và tích cực tham gia các hoạt động Đội của Liên đội cũng như Hội đồng Đội cấp trên.
Theo giáo viên, Tổng phụ trách Đội, Trường Tiểu học và Trung học Cơ sở xã Cường Lợi Hoàng Tố Uyên: Em Nguyễn Thu Hà là học sinh ngoan, chăm chỉ, gương mẫu, nhiệt tình trong các hoạt động của lớp, trường, Đội. Hà là Liên đội trưởng năng nổ, luôn chủ động sáng tạo và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Em là đội viên tài năng, là cây văn nghệ, MC của Liên đội; luôn hòa đồng, thân thiện với mọi người. Với vai trò là lớp phó học tập, em luôn giúp đỡ các bạn; là tấm gương để học sinh trong trường học tập, noi theo.../.
Tên gọi khác: Thổ.
Dân số: 1.626.392 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Nhóm địa phương: Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao và Pa Dí.
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).
Lịch sử: Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên.
Hoạt động sản xuất: Người Tày là cư dân nông nghiệp có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Họ có tập quán đập lúa ở ngoài đồng trên những máng gỗ mà họ gọi là loỏng rồi mới dùng dậu gánh thóc về nhà. Ngoài lúa nước người Tày còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả... Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến nay vẫn còn khá phổ biến. Các nghề thủ công gia đình được chú ý. Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo. Chợ là một hoạt động kinh tế quan trọng.
Ăn: Trước kia, ở một số nơi, người Tày ăn nếp là chính và hầu như gia đình nào cũng có ninh và chõ đồ xôi. Trong các ngày tết, ngày lễ thường làm nhiều loại bánh trái như bánh chưng, bánh giày, bánh gai, bánh dợm, bánh gio, bánh rán, bánh trôi, bánh khảo... Ðặc biệt có loại bánh bột hấp dẫn nhân bằng trứng kiến và cốm được làm từ thóc nếp non hơ lửa, hoặc rang rồi đem giã.
Mặc: Bộ y phục cổ truyền của người Tày làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không thêu thùa, trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài. Nhóm Ngạn mặc áo ngắn hơn một chút, nhóm Phén mặc áo màu nâu, nhóm Thu Lao quấn khăn thành chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm Pa Dí đội mũ hình mái nhà còn nhóm Thổ mặc như người Thái ở Mai Châu (Hòa Bình).

Ở: Người Tày cư trú ở vùng thung lũng các tỉnh Ðông Bắc, từ Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang đến Lào Cai, Yên Bái. Họ thích sống thành bản làng đông đúc, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà.
Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn có bộ sườn làm theo kiểu vì kèo 4, 5, 6 hoặc 7 hàng cột. Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hay lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa.
Phương tiện vận chuyển: Với những thứ nhỏ, gọn người Tày thường cho vào dậu để gánh hoặc cho vào túi vải để đeo trên vai, còn đối với những thứ to, cồng kềnh thì dùng sức người khiêng vác hoặc dùng trâu kéo. Ngoài ra, họ còn dùng mảng để chuyên chở.
Quan hệ xã hội: Chế độ quằng là hình thức tổ chức xã hội đặc thù theo kiểu phong kiến sơ kỳ mang tính chất quý tộc, thế tập, cha truyền con nối.
Trong phạm vi thống trị của mình quằng là người sở hữu toàn bộ ruộng đất, rừng núi, sông suối... vì thế có quyền chi phối những người sống trên mảnh đất đó và bóc lột họ bằng tô lao dịch, bắt phải đến lao động không công và tô hiện vật, buộc phải cống nạp. Chế độ quằng xuất hiện từ rất sớm và tồn tại dai dẳng mãi đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Cưới xin: Nam nữ Tày được tự do yêu đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng hay không lại tuỳ thuộc vào bố mẹ hai bên và "số mệnh" của họ có hợp nhau hay không. Vì thế trong quá trình đi tới hôn nhân phải có bước nhà trai xin lá số của cô gái về so với lá số của con mình. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng.
Sinh đẻ: Khi có mang cũng như trong thời gian đầu sau khi đẻ, người phụ nữ phải kiêng cữ nhiều thứ khác nhau với ước muốn được mẹ tròn, con vuông, đứa bé chóng lớn, khoẻ mạnh và tránh được những vía độc hại.
Sau khi sinh được 3 ngày cúng tẩy vía và lập bàn thờ bà mụ. Khi đầy tháng tổ chức lễ ăn mừng và đặt tên cho trẻ.
Ma chay: Ðám ma thường được tổ chức linh đình với nhiều nghi lễ nhằm mục đích báo hiếu và đưa hồn người chết về bên kia thế giới. Sau khi chôn cất 3 năm làm lễ mãn tang, đưa hồn người chết lên bàn thờ tổ tiên. Hàng năm tổ chức cúng giỗ vào một ngày nhất định.
Nhà mới: Khi làm nhà phải chọn đất xem hướng, xem tuổi, chọn ngày tốt. Trong ngày vào nhà mới chủ gia đình phải nhóm lửa và giữ ngọn lửa cháy suốt đêm đến sáng hôm sau.
Thờ cúng: Người Tày chủ yếu thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra còn thờ cúng thổ công, vua bếp, bà mụ.
Lễ tết: Hàng năm có nhiều ngày tết với những ý nghĩa khác nhau. Tết Nguyên đán, mở đầu năm mới và tết rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm lịch, sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết rất đặc trưng cho dân nông nghiệp trồng lúa nước.
Lịch: Người Tày theo âm lịch.
Học: Chữ nôm Tày xây dựng trên mẫu tự tượng hình, gần giống chữ nôm Việt ra đời khoảng thế kỷ XV được dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng... Chữ Tày-Nùng dựa trên cơ sở chữ cái La-tinh ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa năm 80 được dùng trong các trường phổ thông cấp I vùng có người Tày, Nùng cư trú.
Văn nghệ: Người Tày có nhiều làn điệu dân ca như lượn, phong slư, phuối pác, phuối rọi, vén eng... Lượn gồm lượn cọi, lượn slương, lượn then, lượn nàng ới... là lối hát giao duyên được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng. Người ta thường lượn trong hội lồng tồng, trong đám cưới, mừng nhà mới hay khi có khách đến bản. Ngoài múa trong nghi lễ ở một số địa phương có múa rối với những con rối bằng gỗ khá độc đáo.
Chơi: Trong ngày hội lồng tồng ở nhiều nơi tổ chức ném còn, đánh cầu lông, kéo co, múa sư tử, đánh cờ tướng... Ngày thường trẻ em đánh quay, đánh khăng, đánh chắt, chơi ô...
Theo cema.gov.vn
