Những vần điệu - tục ngữ (phuối pác) của người Tày

Những vần điệu - tục ngữ (phuối pác) của người Tày

Tục ngữ Tày khá phong phú, ở góc nhìn nào về cuộc sống cũng có thể bắt gặp những câu đúc kết, răn dạy của cha ông. Nói về sự ham hố, người Tày nói: Hên bấu che cáy (Cáo không chê gà). Điều này ám chỉ đặc tính của những tên yêu râu xanh và kẻ ích kỉ.

Dân ca, ca dao của người Tày rất mượt mà, phong phú.
Dân ca, ca dao của người Tày rất mượt mà, phong phú.

Có những lời nói thành bài, đủ vần điệu: Nổc cốt quá cằn nà đoải đoải/Mẻ nhình chạn hết phải pền slưa/Pỏ chài chạn thây phưa pền nạn (Bìm bịp đủng đỉnh qua bờ ruộng/Đàn bà lười dệt vải thành hổ/Đàn ông lười cày bừa thành hươu). Có thể thấy đây là tư duy, là quan niệm của người Tày xưa trong khuôn khổ cuộc sống gắn với canh tác nông nghiệp, lối sống tự cung, tự cấp. Lấy nghề nông làm kế sinh nhai duy nhất, cổ nhân coi trọng phẩm chất cần cù, lấy sự chuyên cần, lao động làm thước đo giá trị con người. Lời nói cũng thể hiện sự phân công lao động rất rõ trong gia đình: việc cày bừa (tượng trưng cho những việc lớn) do người đàn ông đảm nhận; chăm lo gia đình, nữ công gia chánh là của người phụ nữ.

Nhận diện bản chất con người, cổ nhân có câu: Pác van toọng slổm (Lời ngọt bụng chua); Phạ đăng ngùm ngùm phạ đăng phân, cần cảng ngùm ngùm cần slẩy khôn (Trời ầm ì sấm trời sắp mưa, người nói lầm bầm người xấu bụng).

Về kinh nghiệm thời tiết, có những câu tục ngữ khá thú vị. Nhìn bầu trời,  màu trời, dân gian cũng đoán được hiện tượng thời tiết sẽ diễn ra: Quằng lếch noòng, quằng toòng lẹng (Vòng sắt thì lụt, vòng đồng thì hạn); Phả phạ kẻo mừa Keo, khẩu tèo khửn các/Phả phạ kẻo mừa Hác, khẩu thác chàn (Mây kéo về Nam, thóc chạy lên gác/Mây kéo về Bắc, đổ thóc ra sàn phơi).Ý là: khi có nhiều đám mây đen kéo về hướng Nam, ai đang phơi thóc lúa phải dọn ngay; còn khi mây kéo về Bắc, cứ việc đổ thóc ra phơi.

Về kinh nghiệm sản xuất, người Tày có câu: Rẩy óm chà, nà óm nặm (Rẫy ủ cành, ruộng dầm nước), nghĩa là làm rẫy thì ủ cành lá cho mục, cho khô để đốt lấy gio làm phân bón cho cây trồng; còn làm ruộng thì ngâm nước cho đất ngấu. Kinh nghiệm trồng lúa nước kịp thời vụ có ảnh hưởng rất lớn đến thu hoạch: Slíp co lả bấu tấng hả co hua (Mười cây mạ cấy muộn không bằng năm cây mạ cấy sớm); Đăm nà tẳm ngoảng á, khẩu bấu quá ngài chiêng (Cấy ruộng tới lúc ve ran, gạo không qua cơm tết). Trong kinh nghiệm trồng lúa nước, thời điểm cày cấy rất quan trọng, gần như quyết định sự được mất của cả vụ mùa nên bà con cũng rất coi trọng việc cày ải, phơi đất. Tháng Tư, tháng Năm mới cấy nhưng ruộng phải cày ải từ cuối năm trước: Thây nà lập đông, khẩu thuổm chang tổng, lậm cằn nưa phưa cằn tẩư (Cày ruộng lập đông, lúa ngập đầy đồng, nặng trĩu đan nhau bờ trên bờ dưới)…

Trong quan hệ gia đình, lòng biết ơn, sự coi trọng đấng sinh thành được giáo dục qua cách đúc kết cô đọng: Khúy mạ bấu tả pài pẳng lăng (Cưỡi ngựa không quên họ ngoại), ý nói khi con cái đã trưởng thành, làm ăn phát đạt, trở nên sang giàu (có ngựa để cưỡi) không được quên người mẹ đã sinh ra mình. Hoặc câu: Khúy mạ khửn keng chắng chắc công pèng pỏ mẻ (Cưỡi ngựa lên đèo mới biết công lao cha mẹ). Có lẽ, từ sự khó nhọc leo từng bước lên đèo dốc (ngày xưa là đường mòn, xuyên qua núi rừng) của con ngựa thồ người trên lưng mà người Tày liên tưởng đến sự khó nhọc của người làm cha, làm mẹ, cũng nặng nhọc, vất vả làm lụng, chăm bẵm những đứa con cho tới ngày trưởng thành. Dân gian cũng cảnh báo, phận làm con không biết vâng lời sẽ không thể có tương lai tốt đẹp: Mu bấu khảu coọc khỉ slưa, lủc bấu tỉnh pỏ mẻ sằn lứ (Lợn không vào chuồng sẽ làm mồi cho cọp, con không vâng lời cha mẹ sẽ hư hỏng)…

Tình chồng vợ được đề cao ở sự nhẫn nhịn, thuận hòa, chăm chỉ lao động: Phua mìa điếp căn, mì kin quá slí (Vợ chồng yêu thương nhau, suốt đời no ấm); Mìa đá phua bấu dăng sắc ỷ, phua đá mìa đắc đỉ hất kin (Vợ mắng chồng lặng im, chồng mắng vợ lặng thầm làm lụng); Phua chạn mìa thai dác, mìa chạn phua slửa khát pậu khua (Chồng lười vợ chết đói, vợ lười chồng rách rưới người cười)… Tình anh em, chị em ruột thịt cần được trân quý: Van bấu quá nựa pất, chếp điếp bấu quá pả nả (Ngon không gì bằng thịt vịt, thân thiết không gì bằng chị em ruột); Phân tốc chắng hăn tảc, thai dác chính hăn pỉ noọng (Mưa xuống mới thấy vắt, đói khát mới thấy anh em).

Trong quan hệ xã hội, có nhiều câu tục ngữ phản ánh sự bất bình của nhân dân trước nạn quan tham, nhũng nhiễu: Hoi tầư ná kin ngầư (Ốc nào chẳng ăn cặn); Pỏ quan hăn kiện, khỉ diên hăn cúa (Quan thấy kiện như nghiện thấy của); Xẩư quan khỏ, xẩư mỏ mièm (Gần quan thì khó, gần nồi thì nhọ)…

Cách ứng xử lễ độ, khiêm nhường, cẩn trọng được chuyển tải qua sự đúc kết: Kin nặm lèo kẹo (Uống nước cũng phải nhai); Ma queng tắng chắng nẳng, cần cà dằng cỏi phuối (Chó quanh ghế mới ngồi, người đắn đo hãy nói). Nhắc nhở người không được huênh hoang, tự mãn trước tri thức của mình, cổ nhân nói: Chắc bấu đảy kỷ lai, quai bấu đảy thuổn (Biết không được bao nhiêu, khôn không bao giờ đủ). Câu này giống như câu châm ngôn phương Tây: “Những gì ta biết chỉ là hạt cát, những gì ta chưa biết là cả đại dương”.

Dạy người sống trung thực, không sa vào con đường trộm cắp, gian manh, cổ nhân không nói dài, chỉ kết luận ngắn gọn: Hất ngay kin bấu lẹo, cổt kẹo kin bấu đo (Làm ăn đường hoàng ăn không hết, làm ăn gian giảo chẳng đủ no); Hất lẳc bấu kin đo, pây xo bấu kin ím (Ăn trộm không đủ no, ăn xin không hết đói)…

Càng đi sâu tìm hiểu, càng thấy ngôn ngữ Tày rất linh hoạt, uyển chuyển; tư duy Tày chân chất, mộc mạc và cũng không kém phần thi vị; mảng tục ngữ là những lời đúc kết ngắn gọn mà thâm thúy, giản dị nhưng sâu sắc. Đây là những bài học thấm thía giúp con người định hướng lối sống, tư duy, cách ứng xử, lao động, góp phần làm cho xã hội ổn định, tốt đẹp và bình yên.
Theo baocaobang.vn

Có thể bạn quan tâm

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Hằng năm, vào ngày Mão tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân xã Đông Cuông, tỉnh Lào Cai rộn ràng tổ chức Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông. Đây là hoạt động truyền thống nhằm tổng kết một năm lao động, sản xuất, những người con quê hương, du khách bày tỏ lòng tri ân với Mẫu Thượng Ngàn, các đấng siêu nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Sáng 23/10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên tổ chức Khai mạc Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh, năm 2025. Sự kiện là hoạt động thiết thực nhằm chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025 - 2030; hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/1945 - 23/11/2025) và 80 năm Ngày Thể thao Việt Nam (27/3/1946 - 27/3/2026).

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Giữa nhịp sống hiện đại đang lan tỏa tới từng bản làng vùng cao, người Dao Tiền ở Bản Sưng, xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình cũ, nay thuộc tỉnh Phú Thọ) vẫn bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có nghi lễ cưới, một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, tín ngưỡng và đạo lý của cộng đồng.

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Chiều 20/10/2025, khoảnh khắc thiêng liêng và xúc động nhất trước thềm lễ hội Katê chính là khi cộng đồng người Chăm làng Hữu Đức (Phước Hữu, Khánh Hòa) trang trọng đón nhận y trang từ người anh em Raglai. Đây không chỉ là một nghi lễ, mà còn là một minh chứng sống động cho mối giao hảo bền chặt, độc đáo đã được trao truyền qua nhiều thế hệ trên mảnh đất đầy nắng và gió. 

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Những ngày này, từ các tuyến phố trung tâm cho đến tận các thôn bản nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Tuyên Quang đều rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ, băng rôn chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là kỳ Đại hội đầu tiên sau khi hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, là sự kiện chính trị trọng đại, thể hiện ý chí, niềm tin và khát vọng của gần 1,9 triệu đồng bào các dân tộc trong tỉnh cùng hướng tới tương lai.

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer tỉnh Cà Mau hiện có trên 32 nghìn hộ với gần 140 nghìn nhân khẩu, chiếm gần 6,5% dân số toàn tỉnh. Những ngày này, tại các địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, không khí chào đón lễ Sene Dolta, một trong những lễ hội truyền thống quan trọng và mang đậm bản sắc văn hóa của người Khmer, diễn ra rộn ràng. 

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Tại miền đất Quảng Ngãi, các làn điệu dân ca H’rê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc. Để những giai điệu này không bị lãng quên, vai trò của người phụ nữ dân tộc H’rê vô cùng to lớn. Họ là những nghệ nhân thầm lặng, miệt mài gìn giữ và lan tỏa tình yêu với âm nhạc truyền thống, biến những lời ca thành sợi dây kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ và hiện tại.

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Trong không gian bảng lảng khói sương của núi rừng, của bản làng, bên những ngôi nhà sàn gỗ, những mế (phụ nữ lớn tuổi), ẻm (cô gái trẻ) trong trang phục áo pắn (áo ngắn), váy dài quấn kết hợp với cạp váy dệt hoa văn tinh xảo, đeo tênh (thắt lưng), xà tích và vấn khăn trắng trên đầu. Tiếng chiêng mường vang vọng cùng lời mo rì rầm đưa con người về lại với cội nguồn, về với những giá trị cốt lõi từ ngàn xưa… Đó là văn hóa Mường, là di sản, kho báu tinh thần của cộng đồng người Mường Hòa Bình cũ, nay là tỉnh Phú Thọ.

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu là một nghi thức quan trọng trong lễ cưới của đồng bào Dao đỏ ở bản Nậm Sáng, xã Mường Than, tỉnh Lai Châu. Trải qua thời gian cùng những thăng trầm của lịch sử, đến nay, người Dao đỏ nơi đây vẫn giữ được nghi thức truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Cô dâu mặc trang phục truyền thống rực rỡ sắc màu. Đoàn đón dâu nhà trai phải chuẩn bị một đội kèn trống gồm 4 người, đây là phần không thể thiếu trong nghi lễ đón dâu. Tiếng kèn, trống, chiêng, chũm chọe để chào mừng và thông báo cho tổ tiên, đất trời về sự kiện trọng đại này.

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram tại ấp Cù Lao, xã Hưng Hội (Cà Mau) như một "bảo tàng mỹ thuật" thể hiện tài năng của các nghệ nhân Khmer. Ngôi chùa cũng là một trong những điểm đến văn hóa vô cùng độc đáo tại Cà Mau.

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Bắc Ninh là địa phương sở hữu di sản Thực hành Then được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong dòng chảy văn hóa xứ Kinh Bắc, làn điệu Then vang lên như tiếng gọi của núi rừng, vừa mộc mạc vừa tha thiết. Tại miền đất giàu truyền thống văn hiến này, Then được cộng đồng đón nhận, trân trọng và đưa vào đời sống như một nét đẹp văn hóa; góp phần làm phong phú thêm bức tranh đa sắc màu của vùng đất này.

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Sau khi hợp nhất, không gian phát triển du lịch của tỉnh Đắk Lắk được mở rộng, tạo cơ hội cho các đơn vị, doanh nghiệp du lịch, lữ hành, lưu trú kết nối tiềm năng, lợi thế ở khu vực Đông - Tây. Du khách được trải nghiệm nhiều cung bậc cảm xúc của biển xanh, cát trắng, nắng vàng và đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ cùng những bản sắc văn hóa đặc trưng của đồng bào miền núi.

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Tây Ninh đang từng ngày gìn giữ và phát huy nghề truyền thống làm đầu lân cùng nghệ thuật múa lân sư rồng. Bằng đôi bàn tay khéo léo, các nghệ nhân tỉ mỉ tạo hình những chiếc đầu lân rực rỡ, hòa với nghệ thuật múa lân sư rồng trong các dịp lễ, Tết và chương trình nghệ thuật, tạo nên nét đẹp văn hóa gắn liền với đời sống tinh thần người dân, góp phần bảo tồn và lan tỏa bản sắc văn hóa đặc trưng của địa phương.

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Thôn Xí Thoại (xã Xuân Lãnh, tỉnh Đắk Lắk) được biết đến là nơi lưu giữ nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Ba Na. Không chỉ là nét đẹp văn hóa mang tính bản sắc, nghề dệt ở đây còn là điểm nhấn thu hút du khách trong hành trình khám phá bản sắc văn hóa.