Văn hoá gia phả dòng họ của dân tộc M’nông

Văn hoá gia phả dòng họ của dân tộc M’nông
Trong thực tế, người M’nông đã có họ và nhiều họ khác nhau như: R’Chil, Pang Ting, Buôn K’rông, Rlăk (nhánh M’nông Gar); họ Plook, R’lawk, Rang (nhánh M’nông R’lăm); họ Liêng, Liêng hot, K’liêng, Ong (nhánh M’nông Chil)… được lưu truyền trong gia phả dòng họ với hình thức truyền khẩu, đồng bào gọi gia phả dòng họ là Boi Jau, nghĩa là tìm, kể chuyện dòng họ, được diễn đạt theo lối kể văn vần mộc mạc, không có sự hư cấu, trừu tượng, ví von; thường đề cập đến địa danh, con vật, về một sự tích, được sắp xếp trình tự về các thế hệ con cháu nối tiếp nhau, đây là một dòng văn hoá độc đáo tồn tại lâu đời song tồn với văn hoá lễ hội, tín ngưỡng, phong tục tập quán của dân tộc M’nông. Trước hết, có thể tìm thấy văn hoá dòng họ M’nông được thể hiện qua sử thi M’nông, như là dòng văn hoá "Bách khoa toàn thư". Mọi sự việc diễn ra ở xã hội M’nông cổ đều được phản ánh trong sử thi, mà Boi Jau đã được thể hiện trong sử thi "Kể dòng con cháu mẹ chép" (N’kroch r’noi dech kon sau me chep).
 

Dân tộc M’nông có tập quán thuộc mẫu hệ, nên con sinh ra lấy tên mẹ; sử thi trên có ghi lại người mẹ tên là Puh, nên con của bà có họ như sau:

N’duh kon Puh, Yang Kon Puh, Ting Kon Puh… Qua gia phả dòng họ (Boi Jau) của M’nông thường thể hiện dưới các dạng sau:

Thường gắn với địa danh và tên người đầu tiên cai quản địa danh đó, như đoạn văn sau:

                                    Cây gle của ông Sơ

                                    Cây gle Pan, ông Sơ trồng

                                    Cây r’hách dăm pang de, ông Sơ trồng

                                    Đất ở thung lũng do bà Pang canh giữ

                                    Ông Sơ lấy bà Pang sinh ra ông Tông

                                    Ông Tông lấy bà Bung sinh ra bà Khuăn

                                    Núi N’Jang ông Dong canh giữ

                                    Bà Khuăn lấy ông Dong sinh ra ông Tõh

                                        (Tài liệu của nghệ nhân Điểu Câu)

Ở đây, địa danh đầu tiên là N’jang, người đầu tiên là ông Sơ và bà Pang được xem là ông tổ của một dòng họ và tên người đầu tiên ở địa danh ấy được lấy làm họ cho một dòng họ mãi mãi về sau.

Sau đoạn mở đầu nói về địa danh và người đầu tiên, đoạn văn tiếp theo kể về các đời con cháu sau, thì Boi Jau, kể tình tự ai lấy ai, con cái là ai, cứ nối tiếp như vậy, mang tính liệt kê đầy đủ, như đoạn văn sau:

                                    Ông Lu lấy bà Lum sinh ra Teh, Khuăn, Pla, Lơp

                                    Ông Lơp lấy bà Lăng sinh ra Bo, B’rông, Jang

                                    Ông Jang lấy bà Ngoel sinh ra Gle, Glot, Lot, Boan

                                                               (Tài liệu dẫn trên)

Đôi khi điều cấm kỵ trong thực phẩm, thức ăn, thức uống cũng lấy để làm họ, gắn với họ tên, như câu chuyện về họ K’Pơr nguồn gốc là loại lá rừng; xưa ở một bon nọ có người phụ nữ hái được lá K’Pơr về làm thức ăn cho gia đình, người hàng xóm nghe nói loại lá này quý hiếm, người ăn khỏe mạnh nên đến nài nỉ người phụ nữ chia lại cho, để họ cùng nấu ăn, bà không cho, nhưng sau đó cả nhà người phụ nữ này vì đã ăn lá K’pơr đều bị chết; từ đó người M’nông kiêng kỵ ăn lá K’pơr, và lấy tên K’pơr làm họ cho dòng họ của mình.

Và hầu như nhiều Boi Jau thể hiện dòng họ M’nông đều có điểm chung và nhiều nhất là gắn với tên địa danh như: Bon Ding, Bu P’râng, Bu P’răk, tên họ gắn với con vật như: Pê (con dê) D’rốc (con bò), K’lăn (con trăn). Tên họ gắn với sinh vật như: K’pơr (lá cây) Dâng Ja reh (bãi cỏ tranh), Phai Mur (lúa gạo).

Do điều kiện lịch sử phát triển, xã hội M’nông ngày nay không còn khép kín theo bon, buôn với đôi chục nóc nhà, ở theo họ tộc như xưa mà bon làng của dân tộc M’nông đã có sự đổi thay, từ khép kín đã được mở rộng, hội nhập. Từ chỗ một dòng họ, ngày nay đã nhiều dòng họ; từ chỗ có một dân tộc M’nông giờ đã có nhiều dân tộc và đã được sống xen cư, đa cư, đa dân tộc. Có những bon, buôn có đến 7 dân tộc như: dân tộc Kinh, Tày, Thái, Mường, M’nông, Mông,… và trong quan hệ hôn nhân Nam, Nữ thuộc dân tộc này trở thành vợ hoặc chồng với dân tộc kia, như người cha là dân tộc M’nông, mẹ là người dân tộc Kinh, con sinh ra đều mang theo họ cha, như cha là Điểu Xuân Ân thì tên con là Điểu Xuân Bình, Điểu Xuân Thuận (giới Nam). Trường hợp mẹ là người M’nông, cha là người Kinh thì con lấy theo họ cha; trường hợp cha là người dân tộc Thái (phía Bắc), mẹ là người M’nông thì con không mang họ của cha và mẹ, mà con chỉ lấy tên đệm, như ông Lò Văn Năm và bà H’Mai, con trai là Y’oanh; tình hình hôn nhân ấy làm cho dòng họ M’nông cần có sự ghi chép, quản lý chặt chẽ hơn.

Văn hoá các Boi Jau không chỉ là một dòng văn hoá được truyền khẩu qua nhiều thế hệ, để khẳng định người M’nông cũng như nhiều tộc người khác đã sinh ra là có họ, gia phả dòng họ không chỉ là sự lưu truyền về cội nguồn, họ tộc mà còn là thể loại sinh hoạt trong đời sống tinh thần của cộng đồng người M’nông, mang tính hát kể, một hình thức văn nghệ dân gian; mỗi khi được hát kể, như hát kể sử thi (Ot N’rông) trong những dịp lễ hội, trong gia đình họ tộc để cho con cháu biết, nhớ về cội nguồn, tổ tiên.

Họ tộc M’nông rất phong phú, mỗi nhánh M’nông đều có nhiều họ, có nhánh M’nông có đến hàng chục họ khác nhau. Nhưng trong thực tế, đa số người M’nông trong các loại giấy tờ như khai sinh, căn cước, bằng cấp… không ghi họ mà chỉ ghi tên riêng, và trước tên riêng có kèm theo tên đệm để xác định giới tính như Điểu, Y, K đối với giới Nam; H’, Thị đối với giới Nữ. Do đó, đã dẫn đến không ít người cho rằng, người M’nông không có tên họ, mà thực chất là thiếu sự ghi chép, thất truyền nghiêm trọng trong dòng văn hoá dòng họ (Boi Jau) của dân tộc M’nông và chắc chắn sự thất truyền về dòng họ đã dẫn đến nhiều nhầm lẫn đáng tiếc khác, nhất là sự kết hôn cùng một huyết thống.

Không phải người M’nông không có ý thức sâu sắc về dòng họ, gia phả dòng họ mà do sự biến đổi, phát triển trong xã hội M’nông mang tính đột phá. Có thể thấy, những năm đầu thế kỷ 20, xã hội M’nông đang còn ở thời kỳ kinh tế hái lượm, săn bắt, trồng trọt, chọc tỉa trên nương đồi, sống du canh, du cư, ở chế độ thị tộc lại không có chữ viết. Và cũng trong thời kỳ này, nhiều cuộc khởi nghĩa của đồng bào M’nông do N’Trang Ghư, N’Trang Lơng lãnh đạo chống lại sự xâm lược và áp đặt chế độ cai trị hà khắc của thực dân Pháp; những nguyên nhân trên trong nhiều nguyên nhân khác đã dẫn đến sự đứt khoảng về văn hoá, đã làm mất đi tập quán làm gia phả của dân tộc M’nông. Dòng văn hoá gia phả dòng họ được lưu giữ trong trí nhớ của lớp người lớn tuổi, tộc trưởng, người có hiểu biết; nhưng ngày lớp người này nay đã già yếu và có nhiều người đã chết, nên nhiều Boi Jau cũng theo họ xuống nằm dười lòng đất. Cũng như văn hoá sử thi, văn hoá cồng chiêng, nghệ nhân hát sử thi (kể Ot N’rông) ở Đăk Nông năm 2004 còn 30 người, nghệ nhân đánh chiêng 90 người, chưa có thống kê nào về số người chết biết Boi Jau, thì đến nay nghệ nhân kể sử thi chỉ còn không quá 10 người, nghệ nhân cồng chiêng (tấu được 10 bài trở lên) còn không quá 30 người, và chắc chắn người biết Boi Jau cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Trong quá trình phát triển văn hoá xã hội đương đại, chúng ta chưa chú trọng hoặc chú trọng nhưng chưa kịp thời bảo tồn, gìn giữ, đã để dòng văn hoá Boi Jau cũng như nhiều dòng văn hoá khác đã mai một, mất đi một cách nghiêm trọng.

Chúng ta đang ra sức xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, con người là trung tâm thì con người trước hết phải biết về cội nguồn, về dòng họ, huyết thống; và trong giao dịch xã hội, bao nhiêu thủ tục hành chính liên quan đến tên họ, con người, thì con người phải được xác lập họ và tên đầy đủ. Boi Jau là một dòng văn hoá M’nông đã hình thành và xuyên xuốt trong quá trình phát triển của dân tộc M’nông, mặc dù nó đã bị đứt khoảng, không được liên tục, đầy đủ trong cộng đồng người M’nông, nhưng dòng văn hoá ấy vẫn còn và có những giá trị nhân văn, mang ý nghĩa thực tiển cao. Do đó, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá gia phả dòng họ M’nông, không chỉ tôn vinh vốn văn hoá truyền thống của dân tộc mà còn đáp ứng nhu cầu của đồng bào M’nông đang có ý thức về cội nguồn và nhằm lưu truyền lại cho con cháu mai sau, tạo thuận lợi trong quản lý hộ tịch, hộ khẩu, các loại giấy tờ hành chính liên quan, tránh được những điều đáng tiếc trong hôn nhân cùng huyết thống.
Theo baotayninh.vn

Có thể bạn quan tâm

Bảo tồn không gian văn hóa của người Xơ Đăng

Bảo tồn không gian văn hóa của người Xơ Đăng

Trong hai ngày 11 và 12/12, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi tổ chức bàn giao mô hình bảo tồn di sản văn hóa truyền thống của dân tộc Xơ Đăng (nhóm Tơ Đ’ră) tại xã Ngọc Réo và dân tộc Xơ Đăng (nhóm Mơ Nâm) tại xã Kon Plông.

Sắc màu hội tụ và lan tỏa bản sắc 49 dân tộc tỉnh Lâm Đồng

Sắc màu hội tụ và lan tỏa bản sắc 49 dân tộc tỉnh Lâm Đồng

Chiều 12/12, tại Nhà truyền thống tổ dân phố N’Jriêng (phường Đông Gia Nghĩa), Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lâm Đồng tổ chức lễ bế mạc Liên hoan các câu lạc bộ cồng chiêng tỉnh lần thứ nhất, năm 2025 với chủ đề “Sắc màu hội tụ và lan tỏa”.

Độc đáo lễ mừng cơm mới của đồng bào Thái ở Mai Châu

Độc đáo lễ mừng cơm mới của đồng bào Thái ở Mai Châu

Trong không gian nhà sàn trầm ấm thoảng hương lúa mới, lễ cúng mừng cơm mới của đồng bào Thái ở Mai Châu, Phú Thọ từ nhiều đời nay vẫn được gìn giữ như một nghi lễ thiêng liêng. Lễ cúng mừng cơm mới là lời tri ân mùa màng, biểu tượng của văn hóa nông nghiệp lúa nước, là sợi dây gắn kết gia đình, dòng họ, cộng đồng người Thái trong hành trình lao động và gìn giữ bản sắc dân tộc.

Bảo tồn, gìn giữ giá trị Lễ mừng lúa mới của đồng bào Giẻ Triêng

Bảo tồn, gìn giữ giá trị Lễ mừng lúa mới của đồng bào Giẻ Triêng

Từ ngày 4 - 6/12/2025, Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp cùng Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tổ chức truyền dạy và phục dựng Lễ mừng lúa mới của dân tộc Giẻ Triêng, nhằm mục tiêu bảo tồn, gìn giữ những giá trị văn hóa của nghi lễ đặc trưng này, trong bối cảnh có nguy cơ bị mai một theo thời gian.

Tiếp tục khơi dòng chảy văn hóa bản địa đặc sắc của người Ê Đê

Tiếp tục khơi dòng chảy văn hóa bản địa đặc sắc của người Ê Đê

Người Ê Đê sinh sống tại huyện Sông Hinh (tỉnh Phú Yên cũ) nay thuộc các xã: Sông Hinh, Đức Bình, Ea Ly, Ea Bá (tỉnh Đắk Lắk) hiện còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống bản địa đặc sắc, độc đáo. Sau khi sáp nhập địa giới hành chính, chính quyền địa phương đã nỗ lực phát huy những giá trị đó trở thành điểm nhấn trong dòng chảy văn hóa địa phương, tạo thêm nhiều việc làm mới tăng thu nhập cho người Ê Đê thông qua các đề án phát triển du lịch cộng đồng.

Âm vang trống đồng trong đời sống người Lô Lô

Âm vang trống đồng trong đời sống người Lô Lô

Khi ánh mặt trời đầu ngày vừa chạm lên những mái trình tường vàng nơi bản Lô Lô Chải, sương vẫn còn quấn quanh triền núi, tiếng trống đồng bỗng ngân lên - trầm, vang, dội vào vách đá rồi lan ra thung sâu như một luồng sinh khí đánh thức cả cao nguyên. Đấy không chỉ là âm thanh mở đầu của lễ hội, mà là nhịp đập của bao thế hệ người Lô Lô, là lời khẳng định rằng giữa đại ngàn đá xám gió ngàn, bản làng này vẫn giữ trọn linh hồn văn hóa tự ngàn xưa.

Khát vọng vươn lên của xã miền núi Phú Thọ

Khát vọng vươn lên của xã miền núi Phú Thọ

Xã Liên Sơn nằm trong nhóm 5 xã có quy mô lớn nhất tỉnh Phú Thọ, sở hữu địa hình đa dạng, nguồn tài nguyên phong phú và nền văn hóa bản địa giàu bản sắc của đồng bào Mường.

Sắc màu văn hoá của đồng bào Chăm

Sắc màu văn hoá của đồng bào Chăm

Không gian văn hóa đền tháp của đồng bào Chăm tỉnh Khánh Hòa là điểm nhấn đặc sắc nằm trong chuỗi các hoạt động của Tuần “Đại đoàn kết các dân tộc - Di sản Văn hóa Việt Nam” (18 - 24/11/2025) đang được giới thiệu tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Sơn Tây, Hà Nội).

Sắc màu dân tộc thiểu số ở Bắc Ninh

Sắc màu dân tộc thiểu số ở Bắc Ninh

Tỉnh Bắc Ninh có trên 39 vạn người đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống (chiếm 11,02% dân số toàn tỉnh) với nhiều thành phần dân tộc, trong đó có 7 thành phần dân tộc thiểu số chủ yếu gồm: Nùng, Tày, Sán Dìu, Hoa, Cao Lan, Sán Chí, Dao (chiếm 97,78% tổng số người dân tộc thiểu số). Mỗi dân tộc có trang phục, tập quán riêng tạo sự khác biệt và đa dạng văn hóa cho vùng đất này.

Quảng bá thương hiệu trà Shan tuyết

Quảng bá thương hiệu trà Shan tuyết

Ngày 5/11, tại Nhà văn hóa Trung tâm, phường An Tường (Tuyên Quang), Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tuyên Quang tổ chức Hội thi sản phẩm trà Shan tuyết và kỹ thuật pha chế trà năm 2025.

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Hằng năm, vào ngày Mão tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân xã Đông Cuông, tỉnh Lào Cai rộn ràng tổ chức Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông. Đây là hoạt động truyền thống nhằm tổng kết một năm lao động, sản xuất, những người con quê hương, du khách bày tỏ lòng tri ân với Mẫu Thượng Ngàn, các đấng siêu nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Sáng 23/10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên tổ chức Khai mạc Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh, năm 2025. Sự kiện là hoạt động thiết thực nhằm chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025 - 2030; hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/1945 - 23/11/2025) và 80 năm Ngày Thể thao Việt Nam (27/3/1946 - 27/3/2026).

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Giữa nhịp sống hiện đại đang lan tỏa tới từng bản làng vùng cao, người Dao Tiền ở Bản Sưng, xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình cũ, nay thuộc tỉnh Phú Thọ) vẫn bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có nghi lễ cưới, một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, tín ngưỡng và đạo lý của cộng đồng.

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Chiều 20/10/2025, khoảnh khắc thiêng liêng và xúc động nhất trước thềm lễ hội Katê chính là khi cộng đồng người Chăm làng Hữu Đức (Phước Hữu, Khánh Hòa) trang trọng đón nhận y trang từ người anh em Raglai. Đây không chỉ là một nghi lễ, mà còn là một minh chứng sống động cho mối giao hảo bền chặt, độc đáo đã được trao truyền qua nhiều thế hệ trên mảnh đất đầy nắng và gió. 

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.