Thăm người Brâu ở làng Đak Mế

Thăm người Brâu ở làng Đak Mế
Trái ngược với những mường tượng ban đầu, làng của người Brâu không hoang vu, nơi thâm sơn cùng cốc mà san sát những mái nhà theo kiểu hình tam giác tại nơi “một con gà gáy ba nước cùng nghe”.

Tộc người bé nhỏ

Trong câu chuyện của vị Trưởng thôn được cho là “học hành cao nhất làng” (hết lớp 2), già Thao Lợi kể về hành trình của người Brâu bám trụ biên giới. Có giai đoạn tưởng chừng như dân tộc ấy sẽ mãi mãi biến mất trong lặng lẽ.
 
Nhà rông của người Brâu ở Kon Tum. Ảnh: B.D
Nhà rông của người Brâu ở Kon Tum. Ảnh: B.D

Trưởng thôn Thao Lợi cho biết: Trước đây người Brâu ở bên kia biên giới đều là ruột rà máu mủ của người Brâu ở làng Đak Mế thuộc xã Bờ Y (huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum) bây giờ. Lý do là những năm 1950, toàn bộ người Brâu sống ở một ngôi làng cạnh suối Đak Mế-được xem là làng Đak Mế cũ. Thế rồi những năm chiến tranh, rồi những lần làng loạn lạc mất nhau trong những vụ cháy làng bí ẩn, người Brâu lạc mất nhau. Kẻ xuôi về chân núi ở Bờ Y, người ngược lên miền thượng Lào, người lại qua Campuchia sinh sống. Năm 1975, người Brâu tan rã và chỉ còn lại khoảng 150 hộ tiếp tục bám trụ lại Đak Mế.

Thấy người Brâu sống trong hang sâu, núi hiểm, quanh năm u tối nên năm 1976 một cuộc di dân ra “vùng sáng” được Nhà nước triển khai. 150 hộ dân với khoảng 400 người đã được đưa về Đak Mế bây giờ để ổn định cuộc sống. Già Thao Lợi nói thêm, ngay cả khi về đến làng mới người Brâu vẫn tiếp tục mất dần. Tính cách của người Brâu như con thú hoang, cứ thích di chuyển mãi chứ chẳng chịu ở yên một chỗ. Đến năm 1990, số phận dân tộc Brâu đứng trước nguy cơ xóa sổ khỏi cộng đồng các dân tộc Việt Nam thật sự khi chỉ còn lại 40 hộ với ngót nghét 100 nhân khẩu.

Theo các tài liệu thì cho đến nay, tộc người Brâu tại Việt Nam chỉ có khoảng chưa đến 400 người. Người Brâu không chỉ bé nhỏ về quy mô làng mạc, số người giữa đại ngàn các dân tộc hùng mạnh ở Tây Nguyên như Jrai, Bahnar, Ê Đê… mà còn bé nhỏ đúng theo nghĩa đen: đàn ông, phụ nữ hầu như không có ai cao lớn. Trưởng thôn Thao Lợi cũng y hệt như thế. Ông đi mà có cảm giác như vóc người ấy nhỏ đến nỗi không đủ để tạo một cái bóng. Thao Lợi nói vui rằng, đồng bào của ông vóc dáng nhỏ nhắn một phần là do người Brâu khổ từ ngày xưa, phần khác cũng là “cho dễ luồn lách, đi lại” nơi núi rừng thăm thẳm.

Ngày tàn của “nữ vương”

Xế chiều, theo bước chân của người làng, chúng tôi đi dọc vào làng để thăm một nhân vật đặc biệt, một người phụ nữ có quyền uy và từng được xem là giàu có nhất làng: Nàng Bu. Nghe qua “Nàng Bu”, cứ ngỡ người phụ nữ ấy đang còn tuổi xuân xanh, mái tóc còn đen và đẹp lộng lẫy như một cô sơn nữ giữa đại ngàn. Nhưng thật ngạc nhiên, người phụ nữ trước mắt chúng tôi là một… bà cụ ngồi ho lụ sụ trong góc giường. Bà cũng không vương giả mà ngược lại đang sống những ngày cuối đời trong cảnh bần hàn, trong một túp lều thưng bằng những thanh củi khô. Giữa cái nắng cuối ngày, hơi khói từ bếp phả ra khắp túp lều. Nàng Bu cay mắt, cố dụi cái mắt vốn đã lèm nhèm vào tấm chăn cũ, thỉnh thoảng lại ho lên mấy tiếng. Thấy người lạ bước vào Nàng cố gượng dậy để nhìn nhưng càng nhìn lại càng chói, Bu đành nằm xuống chiếc giường ọp ẹp và miệng không ngớt đòi hút thuốc.

Tại sao một người phụ nữ trên 100 tuổi, lụ khụ rồi vẫn được gọi là nàng? Những người phụ nữ ngồi quanh Nàng Bu nghe xong liền cười chao đảo, ngã cả ra nền đất. Hóa ra Nàng là cách để phân biệt giữa người nam và người nữ, cũng giống như “Thị” của người miền xuôi: con gái thì tên đệm là Nàng rồi mới đến tên; còn con trai thì tên đệm là Thao.

Trong tất cả người làng Brâu ở xứ sở này, nói đến Nàng Bu ai cũng kiêng nể. Nàng Bu trong ký ức của người làng là người phụ nữ cực kỳ giàu có. Người làng kể rằng ngày xưa khi ở làng cũ, Nàng Bu giàu đến nỗi cứ đi qua đi về các nước mỗi ngày như con chim chơ-rao có cái cánh để bay khắp núi rừng. Nàng Bu chẳng thèm lấy chồng mà ở vậy, trên đôi tai của Nàng trĩu nặng những chiếc vòng được đẽo bằng ngà voi-một chiếc vòng như thế đổi được 4 con trâu. Vòng khuyên tai Nàng Bu đeo nhiều và nặng đến nỗi cho đến cả bây giờ cặp dái tai của Nàng đã sệ xuống và khoét thành một lỗ to đùng, nặng như có cục chì kéo xuống. Nàng Bu cũng là người có hình xăm nhiều nhất, cái cổ dài nhất. Người Brâu quan niệm rằng, hình xăm trên cơ thể thể hiện sự uy quyền, giàu có. Còn vòng đeo cổ làm cho cổ người con gái cao lên, đầy vẻ đài các. Hình xăm càng nhiều, cổ càng dài và tai càng xệ thì chứng tỏ người đó càng giàu.

Một cuộc đời vương giả và quyền uy như thế giờ đã ngủ yên trong dĩ vãng. Nàng Bu của ngày xưa giờ đã về nằm yên trên chiếc giường ọp ẹp, suốt ngày nhụi khói toét cả mắt và nghèo như tất cả người Brâu khác ở Đak Mế. Chúng tôi cố hỏi chuyện, nhưng Nàng không nói được, chỉ ú ớ đòi hút thuốc. Mỗi khi Nàng cố nhấc đầu dậy để đòi thuốc thì ngay lập tức có hai ba người phụ nữ ngồi kế bên túc trực vo tròn mớ thuốc lá tươi nhét vào miệng tẩu cho Bu. Nàng rít thuốc, hà hơi rồi lại nằm chìm vào giấc ngủ. Thỉnh thoảng một vài lần trong ngày, có thầy cúng ở đâu được đưa đến dùng cây gậy đo ngang khuỷu tay rồi đập đập xuống đất ngồi bên Nàng Bu lẩm bẩm mấy câu gì đó rồi đặt cây gậy vào người cho Bu. Theo người dân nơi đây kể, đó là vị thầy cúng bao nhiêu năm nay được giao nhiệm vụ canh con ma rừng để nó không làm hại Bu, ngồi đọc những bài cúng xin Yàng núi cầu cho Bu ở lại mãi với người làng Đak Mế…
TTXVN

Có thể bạn quan tâm

Sắc màu dân tộc thiểu số ở Bắc Ninh

Sắc màu dân tộc thiểu số ở Bắc Ninh

Tỉnh Bắc Ninh có trên 39 vạn người đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống (chiếm 11,02% dân số toàn tỉnh) với nhiều thành phần dân tộc, trong đó có 7 thành phần dân tộc thiểu số chủ yếu gồm: Nùng, Tày, Sán Dìu, Hoa, Cao Lan, Sán Chí, Dao (chiếm 97,78% tổng số người dân tộc thiểu số). Mỗi dân tộc có trang phục, tập quán riêng tạo sự khác biệt và đa dạng văn hóa cho vùng đất này.

Quảng bá thương hiệu trà Shan tuyết

Quảng bá thương hiệu trà Shan tuyết

Ngày 5/11, tại Nhà văn hóa Trung tâm, phường An Tường (Tuyên Quang), Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tuyên Quang tổ chức Hội thi sản phẩm trà Shan tuyết và kỹ thuật pha chế trà năm 2025.

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Hằng năm, vào ngày Mão tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân xã Đông Cuông, tỉnh Lào Cai rộn ràng tổ chức Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông. Đây là hoạt động truyền thống nhằm tổng kết một năm lao động, sản xuất, những người con quê hương, du khách bày tỏ lòng tri ân với Mẫu Thượng Ngàn, các đấng siêu nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Sáng 23/10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên tổ chức Khai mạc Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh, năm 2025. Sự kiện là hoạt động thiết thực nhằm chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025 - 2030; hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/1945 - 23/11/2025) và 80 năm Ngày Thể thao Việt Nam (27/3/1946 - 27/3/2026).

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Giữa nhịp sống hiện đại đang lan tỏa tới từng bản làng vùng cao, người Dao Tiền ở Bản Sưng, xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình cũ, nay thuộc tỉnh Phú Thọ) vẫn bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có nghi lễ cưới, một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, tín ngưỡng và đạo lý của cộng đồng.

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Chiều 20/10/2025, khoảnh khắc thiêng liêng và xúc động nhất trước thềm lễ hội Katê chính là khi cộng đồng người Chăm làng Hữu Đức (Phước Hữu, Khánh Hòa) trang trọng đón nhận y trang từ người anh em Raglai. Đây không chỉ là một nghi lễ, mà còn là một minh chứng sống động cho mối giao hảo bền chặt, độc đáo đã được trao truyền qua nhiều thế hệ trên mảnh đất đầy nắng và gió. 

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Những ngày này, từ các tuyến phố trung tâm cho đến tận các thôn bản nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Tuyên Quang đều rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ, băng rôn chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là kỳ Đại hội đầu tiên sau khi hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, là sự kiện chính trị trọng đại, thể hiện ý chí, niềm tin và khát vọng của gần 1,9 triệu đồng bào các dân tộc trong tỉnh cùng hướng tới tương lai.

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer tỉnh Cà Mau hiện có trên 32 nghìn hộ với gần 140 nghìn nhân khẩu, chiếm gần 6,5% dân số toàn tỉnh. Những ngày này, tại các địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, không khí chào đón lễ Sene Dolta, một trong những lễ hội truyền thống quan trọng và mang đậm bản sắc văn hóa của người Khmer, diễn ra rộn ràng. 

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Tại miền đất Quảng Ngãi, các làn điệu dân ca H’rê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc. Để những giai điệu này không bị lãng quên, vai trò của người phụ nữ dân tộc H’rê vô cùng to lớn. Họ là những nghệ nhân thầm lặng, miệt mài gìn giữ và lan tỏa tình yêu với âm nhạc truyền thống, biến những lời ca thành sợi dây kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ và hiện tại.

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Trong không gian bảng lảng khói sương của núi rừng, của bản làng, bên những ngôi nhà sàn gỗ, những mế (phụ nữ lớn tuổi), ẻm (cô gái trẻ) trong trang phục áo pắn (áo ngắn), váy dài quấn kết hợp với cạp váy dệt hoa văn tinh xảo, đeo tênh (thắt lưng), xà tích và vấn khăn trắng trên đầu. Tiếng chiêng mường vang vọng cùng lời mo rì rầm đưa con người về lại với cội nguồn, về với những giá trị cốt lõi từ ngàn xưa… Đó là văn hóa Mường, là di sản, kho báu tinh thần của cộng đồng người Mường Hòa Bình cũ, nay là tỉnh Phú Thọ.

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu là một nghi thức quan trọng trong lễ cưới của đồng bào Dao đỏ ở bản Nậm Sáng, xã Mường Than, tỉnh Lai Châu. Trải qua thời gian cùng những thăng trầm của lịch sử, đến nay, người Dao đỏ nơi đây vẫn giữ được nghi thức truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Cô dâu mặc trang phục truyền thống rực rỡ sắc màu. Đoàn đón dâu nhà trai phải chuẩn bị một đội kèn trống gồm 4 người, đây là phần không thể thiếu trong nghi lễ đón dâu. Tiếng kèn, trống, chiêng, chũm chọe để chào mừng và thông báo cho tổ tiên, đất trời về sự kiện trọng đại này.