Độc đáo bộ nam phục người Ơ Đu

Độc đáo bộ nam phục người Ơ Đu
Là dân tộc duy nhất có ở Tương Dương (Nghệ An), dân tộc Ơ Đu cũng có truyền thống tự dệt vải và may trang phục cho dân tộc mình. Bộ trang phục nam giới của dân tộc cũng có nhiều nét độc đáo riêng so với các dân tộc khác.
Cũng giống như nữ giới, nam giới đồng bào dân tộc này cũng có bộ trang phục riêng và không kém phầm độc đáo. Với bộ trang phục người phụ nữ màu chủ đạo là màu đen, thì nam phục người Ơ Đu là màu đỏ nhạt, màu chàm. Ảnh: Đình Tuân Bộ nam phục Ơ Đu được làm từ sợi tơ tằm gồm có quần và áo. Trong khi áo thường được may thêm 2 cái túi ở phía dưới thân áo. Còn quần không có khuy, cúc và dây chun mà dùng bằng sợi dây để cố định lại khi mặc. Ảnh Đình Tuân Trước kia do chưa có cúc nên 2 thân áo được may những sợi dây để buộc lại với nhau. Ảnh: Đình Tuân Cổ áo thường là cổ tròng. Ảnh: Đình Tuân Hiện nay, trang phục truyền thống ít được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống thường ngày. Thế nhưng trong sự phát triển của thời trang hiện đại, không chỉ có trang phục mà nhiều nét văn hóa độc đáo của người dân tộc Ơ Đu cũng đã mai một khá nhiều. Ảnh: Đình Tuân Là 1 trong 5 dân tộc ít người nhất và cũng là dân tộc duy nhất có ở Tương Dương (Nghệ An), nên trong thời gian qua nhận được nhiều sự quan tâm đầu tư phục dựng kinh phí để bảo tồn, gìn giữ lại những nét văn hóa độc đáo của dân tộc Ơ Đu. Hy vọng với sự vào cuộc của cả cộng đồng sẽ giúp bản sắc văn hóa dân tộc Ơ Đu luôn trường tồn và phát triển. Ảnh: Đình Tuân
Cũng giống như nữ giới, nam giới đồng bào dân tộc này cũng có bộ trang phục riêng và không kém phầm độc đáo. Với bộ trang phục người phụ nữ màu chủ đạo là màu đen, thì nam phục người Ơ Đu là màu đỏ nhạt, màu chàm. Ảnh: Đình Tuân
 
Cũng giống như nữ giới, nam giới đồng bào dân tộc này cũng có bộ trang phục riêng và không kém phầm độc đáo. Với bộ trang phục người phụ nữ màu chủ đạo là màu đen, thì nam phục người Ơ Đu là màu đỏ nhạt, màu chàm. Ảnh: Đình Tuân Bộ nam phục Ơ Đu được làm từ sợi tơ tằm gồm có quần và áo. Trong khi áo thường được may thêm 2 cái túi ở phía dưới thân áo. Còn quần không có khuy, cúc và dây chun mà dùng bằng sợi dây để cố định lại khi mặc. Ảnh Đình Tuân Trước kia do chưa có cúc nên 2 thân áo được may những sợi dây để buộc lại với nhau. Ảnh: Đình Tuân Cổ áo thường là cổ tròng. Ảnh: Đình Tuân Hiện nay, trang phục truyền thống ít được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống thường ngày. Thế nhưng trong sự phát triển của thời trang hiện đại, không chỉ có trang phục mà nhiều nét văn hóa độc đáo của người dân tộc Ơ Đu cũng đã mai một khá nhiều. Ảnh: Đình Tuân Là 1 trong 5 dân tộc ít người nhất và cũng là dân tộc duy nhất có ở Tương Dương (Nghệ An), nên trong thời gian qua nhận được nhiều sự quan tâm đầu tư phục dựng kinh phí để bảo tồn, gìn giữ lại những nét văn hóa độc đáo của dân tộc Ơ Đu. Hy vọng với sự vào cuộc của cả cộng đồng sẽ giúp bản sắc văn hóa dân tộc Ơ Đu luôn trường tồn và phát triển. Ảnh: Đình Tuân
Bộ nam phục Ơ Đu được làm từ sợi tơ tằm gồm có quần và áo. Trong khi áo thường được may thêm 2 cái túi ở phía dưới thân áo. Còn quần không có khuy, cúc và dây chun mà dùng bằng sợi dây để cố định lại khi mặc. Ảnh Đình Tuân
 
Cũng giống như nữ giới, nam giới đồng bào dân tộc này cũng có bộ trang phục riêng và không kém phầm độc đáo. Với bộ trang phục người phụ nữ màu chủ đạo là màu đen, thì nam phục người Ơ Đu là màu đỏ nhạt, màu chàm. Ảnh: Đình Tuân Bộ nam phục Ơ Đu được làm từ sợi tơ tằm gồm có quần và áo. Trong khi áo thường được may thêm 2 cái túi ở phía dưới thân áo. Còn quần không có khuy, cúc và dây chun mà dùng bằng sợi dây để cố định lại khi mặc. Ảnh Đình Tuân Trước kia do chưa có cúc nên 2 thân áo được may những sợi dây để buộc lại với nhau. Ảnh: Đình Tuân Cổ áo thường là cổ tròng. Ảnh: Đình Tuân Hiện nay, trang phục truyền thống ít được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống thường ngày. Thế nhưng trong sự phát triển của thời trang hiện đại, không chỉ có trang phục mà nhiều nét văn hóa độc đáo của người dân tộc Ơ Đu cũng đã mai một khá nhiều. Ảnh: Đình Tuân Là 1 trong 5 dân tộc ít người nhất và cũng là dân tộc duy nhất có ở Tương Dương (Nghệ An), nên trong thời gian qua nhận được nhiều sự quan tâm đầu tư phục dựng kinh phí để bảo tồn, gìn giữ lại những nét văn hóa độc đáo của dân tộc Ơ Đu. Hy vọng với sự vào cuộc của cả cộng đồng sẽ giúp bản sắc văn hóa dân tộc Ơ Đu luôn trường tồn và phát triển. Ảnh: Đình Tuân
Trước kia do chưa có cúc nên 2 thân áo được may những sợi dây để buộc lại với nhau. Ảnh: Đình Tuân
 
Cũng giống như nữ giới, nam giới đồng bào dân tộc này cũng có bộ trang phục riêng và không kém phầm độc đáo. Với bộ trang phục người phụ nữ màu chủ đạo là màu đen, thì nam phục người Ơ Đu là màu đỏ nhạt, màu chàm. Ảnh: Đình Tuân Bộ nam phục Ơ Đu được làm từ sợi tơ tằm gồm có quần và áo. Trong khi áo thường được may thêm 2 cái túi ở phía dưới thân áo. Còn quần không có khuy, cúc và dây chun mà dùng bằng sợi dây để cố định lại khi mặc. Ảnh Đình Tuân Trước kia do chưa có cúc nên 2 thân áo được may những sợi dây để buộc lại với nhau. Ảnh: Đình Tuân Cổ áo thường là cổ tròng. Ảnh: Đình Tuân Hiện nay, trang phục truyền thống ít được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống thường ngày. Thế nhưng trong sự phát triển của thời trang hiện đại, không chỉ có trang phục mà nhiều nét văn hóa độc đáo của người dân tộc Ơ Đu cũng đã mai một khá nhiều. Ảnh: Đình Tuân Là 1 trong 5 dân tộc ít người nhất và cũng là dân tộc duy nhất có ở Tương Dương (Nghệ An), nên trong thời gian qua nhận được nhiều sự quan tâm đầu tư phục dựng kinh phí để bảo tồn, gìn giữ lại những nét văn hóa độc đáo của dân tộc Ơ Đu. Hy vọng với sự vào cuộc của cả cộng đồng sẽ giúp bản sắc văn hóa dân tộc Ơ Đu luôn trường tồn và phát triển. Ảnh: Đình Tuân
Cổ áo thường là cổ tròng. Ảnh: Đình Tuân
 
Cũng giống như nữ giới, nam giới đồng bào dân tộc này cũng có bộ trang phục riêng và không kém phầm độc đáo. Với bộ trang phục người phụ nữ màu chủ đạo là màu đen, thì nam phục người Ơ Đu là màu đỏ nhạt, màu chàm. Ảnh: Đình Tuân Bộ nam phục Ơ Đu được làm từ sợi tơ tằm gồm có quần và áo. Trong khi áo thường được may thêm 2 cái túi ở phía dưới thân áo. Còn quần không có khuy, cúc và dây chun mà dùng bằng sợi dây để cố định lại khi mặc. Ảnh Đình Tuân Trước kia do chưa có cúc nên 2 thân áo được may những sợi dây để buộc lại với nhau. Ảnh: Đình Tuân Cổ áo thường là cổ tròng. Ảnh: Đình Tuân Hiện nay, trang phục truyền thống ít được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống thường ngày. Thế nhưng trong sự phát triển của thời trang hiện đại, không chỉ có trang phục mà nhiều nét văn hóa độc đáo của người dân tộc Ơ Đu cũng đã mai một khá nhiều. Ảnh: Đình Tuân Là 1 trong 5 dân tộc ít người nhất và cũng là dân tộc duy nhất có ở Tương Dương (Nghệ An), nên trong thời gian qua nhận được nhiều sự quan tâm đầu tư phục dựng kinh phí để bảo tồn, gìn giữ lại những nét văn hóa độc đáo của dân tộc Ơ Đu. Hy vọng với sự vào cuộc của cả cộng đồng sẽ giúp bản sắc văn hóa dân tộc Ơ Đu luôn trường tồn và phát triển. Ảnh: Đình Tuân
Hiện nay, trang phục truyền thống ít được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống thường ngày. Thế nhưng trong sự phát triển của thời trang hiện đại, không chỉ có trang phục mà nhiều nét văn hóa độc đáo của người dân tộc Ơ Đu cũng đã mai một khá nhiều. Ảnh: Đình Tuân
 
Cũng giống như nữ giới, nam giới đồng bào dân tộc này cũng có bộ trang phục riêng và không kém phầm độc đáo. Với bộ trang phục người phụ nữ màu chủ đạo là màu đen, thì nam phục người Ơ Đu là màu đỏ nhạt, màu chàm. Ảnh: Đình Tuân Bộ nam phục Ơ Đu được làm từ sợi tơ tằm gồm có quần và áo. Trong khi áo thường được may thêm 2 cái túi ở phía dưới thân áo. Còn quần không có khuy, cúc và dây chun mà dùng bằng sợi dây để cố định lại khi mặc. Ảnh Đình Tuân Trước kia do chưa có cúc nên 2 thân áo được may những sợi dây để buộc lại với nhau. Ảnh: Đình Tuân Cổ áo thường là cổ tròng. Ảnh: Đình Tuân Hiện nay, trang phục truyền thống ít được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống thường ngày. Thế nhưng trong sự phát triển của thời trang hiện đại, không chỉ có trang phục mà nhiều nét văn hóa độc đáo của người dân tộc Ơ Đu cũng đã mai một khá nhiều. Ảnh: Đình Tuân Là 1 trong 5 dân tộc ít người nhất và cũng là dân tộc duy nhất có ở Tương Dương (Nghệ An), nên trong thời gian qua nhận được nhiều sự quan tâm đầu tư phục dựng kinh phí để bảo tồn, gìn giữ lại những nét văn hóa độc đáo của dân tộc Ơ Đu. Hy vọng với sự vào cuộc của cả cộng đồng sẽ giúp bản sắc văn hóa dân tộc Ơ Đu luôn trường tồn và phát triển. Ảnh: Đình Tuân
Là 1 trong 5 dân tộc ít người nhất và cũng là dân tộc duy nhất có ở Tương Dương (Nghệ An), nên trong thời gian qua nhận được nhiều sự quan tâm đầu tư phục dựng kinh phí để bảo tồn, gìn giữ lại những nét văn hóa độc đáo của dân tộc Ơ Đu. Hy vọng với sự vào cuộc của cả cộng đồng sẽ giúp bản sắc văn hóa dân tộc Ơ Đu luôn trường tồn và phát triển. Ảnh: Đình Tuân

Theo baonghean.vn

Dân tộc Ơ Đu

Tên tự gọi: Ơ Ðu hoặc I Ðu.

Tên gọi khác: Tày Hạt (người đói rách).

Dân số: 376 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á). Nay chỉ còn tiếng mẹ đẻ. Hầu hết người Ơ Ðu dùng các tiếng Khơ Mú, Thái làm công cụ giao tiếp hàng ngày.

Lịch sử: Xưa kia người Ơ Ðu cư trú suốt một vùng dọc theo hai con sông Nặm Mộ và Nặm Nơn. Nhưng tập trung nhất vẫn là dọc sông Nặm Nơn. Do nhiều biến cố trong lịch sử liên tiếp xảy ra ở vùng này buộc họ phải rời đi nơi khác hay sống hoà lẫn với các cư dân mới đến. Hiện người Ơ Ðu ở hai bản đông nhất là Xốp Pột và Kim Hoà, xã Kim Ða huyện Tương Dương, Nghệ An. Ở Lào họ hợp với nhóm Tày Phoọng cư trú ở tỉnh Sầm Nưa.

Hoạt động sản xuất: Người Ơ Ðu sinh sống chủ yếu bằng nương rẫy và một phần ruộng nước. Mỗi năm họ chỉ làm một vụ: phát, đốt, gieo hạt từ các tháng 4-5 âm lịch, thu hoạch vào các tháng 9-10. Công cụ làm rẫy gồm rìu, dao, gậy chọc lỗ. Ngoài lúa là giống cây trồng chính, còn trồng sắn, bầu, bí, ngô, ý dĩ, đỗ, hái lượm và săn bắn vẫn có vị trí quan trọng trong đời sống. Chăn nuôi trâu bò, lợn gà, dê khá phát triển. Trâu, bò dùng làm sức kéo, kéo cày, lợn gà sử dụng trong các dịp cưới, nghi lễ tín ngưỡng, cúng ma... Ðan lát đồ gia dụng bằng giang, mây, một phần tiêu dùng, phần để trao đổi. Xưa họ còn biết dệt vải.

Ăn: Người Ơ Ðu thường ăn 1 bữa phụ (sáng), 2 bữa chính (trưa và tối). Trước đây họ ăn xôi đồ, nay có cả cơm gạo tẻ, khi mất mùa ăn củ nâu, củ mài, hoặc sắn, ngô thay cơm. Họ thích uống rượu, hút thuốc lào.

Mặc: Hiện nay, nam và nữ đều ăn mặc theo kiểu người Thái, Việt trong vùng. Những bộ trang phục cổ truyền còn rất ít.

: Trước đây, ngôi nhà truyền thống, nhà sàn, phải dựng quay đầu vào núi (dựng chiều dọc). Khi dựng cột phải tuân theo một thứ tự nhất định. Nay kiểu nhà này không còn nữa. Họ ở sàn nhà giống như nhà sàn người Thái.

Phương tiện vận chuyển: Phổ biến hơn cả là gùi dây đeo bên trán. Gùi rất đẹp, bền chắc.

Quan hệ xã hội: Do số lượng dân số ít, sống xen kẽ với người Khơ Mú và Thái cho nên các mặt quan hệ xã hội văn hóa của họ chịu nhiều ảnh hưởng hai dân tộc này. Người Ơ Ðu lấy họ theo họ Thái, Lào. Tổ chức dòng họ rất mờ nhạt. Trưởng họ là người có uy tín, được kính trọng và có vai trò lớn trong dòng họ.

Gia đình người Ơ Ðu là gia đình nhỏ phụ quyền. Ðàn ông quyết định tất thẩy các công việc trong nhà. Phụ nữ không được hưởng thừa tự. Họ phổ biến tục ở rể. Lễ vật trong dịp cưới không thể thiếu là thịt sóc, thịt chuột sấy khô và cá ướp muối.

Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ ngồi tại góc nhà phía gian dành cho phụ nữ. Nhau trẻ bỏ vào ống tre đem chôn ngay dưới gầm sàn. Tuổi đứa con được tính từ ngày có tiếng sấm trong năm. Khi đó đứa bé được coi là đầy năm và được bố mẹ làm lễ đặt tên.

Thờ cúng: Người Ơ Ðu tin rằng khi người chết, hồn biến thành ma. Hồn thân thể ngụ tại bãi tha ma, hồn gốc ở chỏm tóc ở lại làm ma nhà. Ma nhà chỉ ở với con cháu một đời theo thứ tự từ con trai cả đến con trai thứ. Khi các con trai đã chết hết, người ta làm lễ tiễn ma nhà về với tổ tiên. Nơi thờ ma nhà tại góc hồi của gian thứ hai. Bàn thờ đơn giản, treo cao sát mái nhà.

Lễ tết: Người Ơ Ðu ăn tết Nguyên đán, tết cơm mới. Ngày hội lớn nhất là lễ đón tiếng sấm trong năm. Ngày đó, cư dân khắp nơi đổ về mở hội tế trời, mổ trâu, bò, lợn ăn mừng tại bản Xốp Pột, xã Kim Ða, Tương Dương, Nghệ An.

Văn nghệ: Người Ơ Ðu sử dụng thành thạo các loại nhạc cụ của người Khơ Mú, Thái như: sáo, khèn, chiêng, trống; thuộc các làn điệu dân ca Khơ Mú, Thái, kể chuyện dã sử.

Chơi: Người Ơ Ðu có vai trò chơi đánh khăng, chơi quay, ném còn, ô ăn quan.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Ơ Đu

Có thể bạn quan tâm

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Hằng năm, vào ngày Mão tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân xã Đông Cuông, tỉnh Lào Cai rộn ràng tổ chức Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông. Đây là hoạt động truyền thống nhằm tổng kết một năm lao động, sản xuất, những người con quê hương, du khách bày tỏ lòng tri ân với Mẫu Thượng Ngàn, các đấng siêu nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Sáng 23/10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên tổ chức Khai mạc Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh, năm 2025. Sự kiện là hoạt động thiết thực nhằm chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025 - 2030; hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/1945 - 23/11/2025) và 80 năm Ngày Thể thao Việt Nam (27/3/1946 - 27/3/2026).

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Giữa nhịp sống hiện đại đang lan tỏa tới từng bản làng vùng cao, người Dao Tiền ở Bản Sưng, xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình cũ, nay thuộc tỉnh Phú Thọ) vẫn bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có nghi lễ cưới, một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, tín ngưỡng và đạo lý của cộng đồng.

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Chiều 20/10/2025, khoảnh khắc thiêng liêng và xúc động nhất trước thềm lễ hội Katê chính là khi cộng đồng người Chăm làng Hữu Đức (Phước Hữu, Khánh Hòa) trang trọng đón nhận y trang từ người anh em Raglai. Đây không chỉ là một nghi lễ, mà còn là một minh chứng sống động cho mối giao hảo bền chặt, độc đáo đã được trao truyền qua nhiều thế hệ trên mảnh đất đầy nắng và gió. 

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Những ngày này, từ các tuyến phố trung tâm cho đến tận các thôn bản nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Tuyên Quang đều rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ, băng rôn chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là kỳ Đại hội đầu tiên sau khi hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, là sự kiện chính trị trọng đại, thể hiện ý chí, niềm tin và khát vọng của gần 1,9 triệu đồng bào các dân tộc trong tỉnh cùng hướng tới tương lai.

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer tỉnh Cà Mau hiện có trên 32 nghìn hộ với gần 140 nghìn nhân khẩu, chiếm gần 6,5% dân số toàn tỉnh. Những ngày này, tại các địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, không khí chào đón lễ Sene Dolta, một trong những lễ hội truyền thống quan trọng và mang đậm bản sắc văn hóa của người Khmer, diễn ra rộn ràng. 

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Tại miền đất Quảng Ngãi, các làn điệu dân ca H’rê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc. Để những giai điệu này không bị lãng quên, vai trò của người phụ nữ dân tộc H’rê vô cùng to lớn. Họ là những nghệ nhân thầm lặng, miệt mài gìn giữ và lan tỏa tình yêu với âm nhạc truyền thống, biến những lời ca thành sợi dây kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ và hiện tại.

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Trong không gian bảng lảng khói sương của núi rừng, của bản làng, bên những ngôi nhà sàn gỗ, những mế (phụ nữ lớn tuổi), ẻm (cô gái trẻ) trong trang phục áo pắn (áo ngắn), váy dài quấn kết hợp với cạp váy dệt hoa văn tinh xảo, đeo tênh (thắt lưng), xà tích và vấn khăn trắng trên đầu. Tiếng chiêng mường vang vọng cùng lời mo rì rầm đưa con người về lại với cội nguồn, về với những giá trị cốt lõi từ ngàn xưa… Đó là văn hóa Mường, là di sản, kho báu tinh thần của cộng đồng người Mường Hòa Bình cũ, nay là tỉnh Phú Thọ.

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu là một nghi thức quan trọng trong lễ cưới của đồng bào Dao đỏ ở bản Nậm Sáng, xã Mường Than, tỉnh Lai Châu. Trải qua thời gian cùng những thăng trầm của lịch sử, đến nay, người Dao đỏ nơi đây vẫn giữ được nghi thức truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Cô dâu mặc trang phục truyền thống rực rỡ sắc màu. Đoàn đón dâu nhà trai phải chuẩn bị một đội kèn trống gồm 4 người, đây là phần không thể thiếu trong nghi lễ đón dâu. Tiếng kèn, trống, chiêng, chũm chọe để chào mừng và thông báo cho tổ tiên, đất trời về sự kiện trọng đại này.

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram tại ấp Cù Lao, xã Hưng Hội (Cà Mau) như một "bảo tàng mỹ thuật" thể hiện tài năng của các nghệ nhân Khmer. Ngôi chùa cũng là một trong những điểm đến văn hóa vô cùng độc đáo tại Cà Mau.

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Bắc Ninh là địa phương sở hữu di sản Thực hành Then được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong dòng chảy văn hóa xứ Kinh Bắc, làn điệu Then vang lên như tiếng gọi của núi rừng, vừa mộc mạc vừa tha thiết. Tại miền đất giàu truyền thống văn hiến này, Then được cộng đồng đón nhận, trân trọng và đưa vào đời sống như một nét đẹp văn hóa; góp phần làm phong phú thêm bức tranh đa sắc màu của vùng đất này.

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Sau khi hợp nhất, không gian phát triển du lịch của tỉnh Đắk Lắk được mở rộng, tạo cơ hội cho các đơn vị, doanh nghiệp du lịch, lữ hành, lưu trú kết nối tiềm năng, lợi thế ở khu vực Đông - Tây. Du khách được trải nghiệm nhiều cung bậc cảm xúc của biển xanh, cát trắng, nắng vàng và đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ cùng những bản sắc văn hóa đặc trưng của đồng bào miền núi.