Độc đáo nghi lễ tảo mộ của người Hà Nhì

Độc đáo nghi lễ tảo mộ của người Hà Nhì
Tháng 2 âm lịch hàng năm là thời điểm đồng bào Hà Nhì ở vùng cao Bát Xát (Lào Cai) làm lễ tảo mộ cho người đã mất. Gia đình nào có điều kiện sẽ xây “nhà mới” cho người đã khuất và tổ chức lễ tảo mộ linh đình. 
 
Buổi tối hôm trước khi diễn ra lễ tảo mộ, những người trong gia đình và bà con trong thôn đến giúp chủ nhà gấp giấy tiền vàng thành chim hạc, hoa, đồ vật để hôm sau làm lễ. Lễ tảo mộ có sự tham gia của đại diện các gia đình trong thôn. Mọi người giúp nhau mang đồ đạc lên rừng nơi có phần mộ của người đã mất. Thịt lợn, thịt gà và các món ăn được chế biến ngay tại rừng để dâng cúng người đã mất. Mọi người trong gia đình và dân làng cùng nhau sửa sang lại phần mộ thật chu đáo. Trước đó mấy hôm, gia chủ đã xây “nhà mới” cho người đã mất. Những người phụ nữ Hà Nhì cũng xúc đất đắp lên mộ để làm lý. Sau khi các gia đình đặt lễ vật lên mộ thì chủ nhà thực hiện nghi lễ cúng tại bàn thờ thần rừng Gạ Ma Do. Sau lễ cúng, những người già ăn cơm tại mâm trước mộ. Một phong tục độc đáo là phụ nữ trong gia đình sẽ mang kẹo và nước ngọt đến chia cho tất cả những người tham gia lễ tảo mộ, còn đàn ông thì đi mời rượu các mâm. Nghi lễ tảo mộ thể hiện tình cảm sâu sắc của người Hà Nhì dành cho người đã mất, đồng thời là nét đẹp văn hóa mang tính cộng đồng cao, được lưu giữ qua nhiều thế hệ.
Buổi tối hôm trước khi diễn ra lễ tảo mộ, những người trong gia đình và bà con trong thôn đến giúp chủ nhà gấp giấy tiền vàng thành chim hạc, hoa, đồ vật để hôm sau làm lễ.
Buổi tối hôm trước khi diễn ra lễ tảo mộ, những người trong gia đình và bà con trong thôn đến giúp chủ nhà gấp giấy tiền vàng thành chim hạc, hoa, đồ vật để hôm sau làm lễ. Lễ tảo mộ có sự tham gia của đại diện các gia đình trong thôn. Mọi người giúp nhau mang đồ đạc lên rừng nơi có phần mộ của người đã mất. Thịt lợn, thịt gà và các món ăn được chế biến ngay tại rừng để dâng cúng người đã mất. Mọi người trong gia đình và dân làng cùng nhau sửa sang lại phần mộ thật chu đáo. Trước đó mấy hôm, gia chủ đã xây “nhà mới” cho người đã mất. Những người phụ nữ Hà Nhì cũng xúc đất đắp lên mộ để làm lý. Sau khi các gia đình đặt lễ vật lên mộ thì chủ nhà thực hiện nghi lễ cúng tại bàn thờ thần rừng Gạ Ma Do. Sau lễ cúng, những người già ăn cơm tại mâm trước mộ. Một phong tục độc đáo là phụ nữ trong gia đình sẽ mang kẹo và nước ngọt đến chia cho tất cả những người tham gia lễ tảo mộ, còn đàn ông thì đi mời rượu các mâm. Nghi lễ tảo mộ thể hiện tình cảm sâu sắc của người Hà Nhì dành cho người đã mất, đồng thời là nét đẹp văn hóa mang tính cộng đồng cao, được lưu giữ qua nhiều thế hệ.
Lễ tảo mộ có sự tham gia của đại diện các gia đình trong thôn. Mọi người giúp nhau mang đồ đạc lên rừng nơi có phần mộ của người đã mất.
Buổi tối hôm trước khi diễn ra lễ tảo mộ, những người trong gia đình và bà con trong thôn đến giúp chủ nhà gấp giấy tiền vàng thành chim hạc, hoa, đồ vật để hôm sau làm lễ. Lễ tảo mộ có sự tham gia của đại diện các gia đình trong thôn. Mọi người giúp nhau mang đồ đạc lên rừng nơi có phần mộ của người đã mất. Thịt lợn, thịt gà và các món ăn được chế biến ngay tại rừng để dâng cúng người đã mất. Mọi người trong gia đình và dân làng cùng nhau sửa sang lại phần mộ thật chu đáo. Trước đó mấy hôm, gia chủ đã xây “nhà mới” cho người đã mất. Những người phụ nữ Hà Nhì cũng xúc đất đắp lên mộ để làm lý. Sau khi các gia đình đặt lễ vật lên mộ thì chủ nhà thực hiện nghi lễ cúng tại bàn thờ thần rừng Gạ Ma Do. Sau lễ cúng, những người già ăn cơm tại mâm trước mộ. Một phong tục độc đáo là phụ nữ trong gia đình sẽ mang kẹo và nước ngọt đến chia cho tất cả những người tham gia lễ tảo mộ, còn đàn ông thì đi mời rượu các mâm. Nghi lễ tảo mộ thể hiện tình cảm sâu sắc của người Hà Nhì dành cho người đã mất, đồng thời là nét đẹp văn hóa mang tính cộng đồng cao, được lưu giữ qua nhiều thế hệ.
Thịt lợn, thịt gà và các món ăn được chế biến ngay tại rừng để dâng cúng người đã mất.
Buổi tối hôm trước khi diễn ra lễ tảo mộ, những người trong gia đình và bà con trong thôn đến giúp chủ nhà gấp giấy tiền vàng thành chim hạc, hoa, đồ vật để hôm sau làm lễ. Lễ tảo mộ có sự tham gia của đại diện các gia đình trong thôn. Mọi người giúp nhau mang đồ đạc lên rừng nơi có phần mộ của người đã mất. Thịt lợn, thịt gà và các món ăn được chế biến ngay tại rừng để dâng cúng người đã mất. Mọi người trong gia đình và dân làng cùng nhau sửa sang lại phần mộ thật chu đáo. Trước đó mấy hôm, gia chủ đã xây “nhà mới” cho người đã mất. Những người phụ nữ Hà Nhì cũng xúc đất đắp lên mộ để làm lý. Sau khi các gia đình đặt lễ vật lên mộ thì chủ nhà thực hiện nghi lễ cúng tại bàn thờ thần rừng Gạ Ma Do. Sau lễ cúng, những người già ăn cơm tại mâm trước mộ. Một phong tục độc đáo là phụ nữ trong gia đình sẽ mang kẹo và nước ngọt đến chia cho tất cả những người tham gia lễ tảo mộ, còn đàn ông thì đi mời rượu các mâm. Nghi lễ tảo mộ thể hiện tình cảm sâu sắc của người Hà Nhì dành cho người đã mất, đồng thời là nét đẹp văn hóa mang tính cộng đồng cao, được lưu giữ qua nhiều thế hệ.
Mọi người trong gia đình và dân làng cùng nhau sửa sang lại phần mộ thật chu đáo. Trước đó mấy hôm, gia chủ đã xây “nhà mới” cho người đã mất.
Buổi tối hôm trước khi diễn ra lễ tảo mộ, những người trong gia đình và bà con trong thôn đến giúp chủ nhà gấp giấy tiền vàng thành chim hạc, hoa, đồ vật để hôm sau làm lễ. Lễ tảo mộ có sự tham gia của đại diện các gia đình trong thôn. Mọi người giúp nhau mang đồ đạc lên rừng nơi có phần mộ của người đã mất. Thịt lợn, thịt gà và các món ăn được chế biến ngay tại rừng để dâng cúng người đã mất. Mọi người trong gia đình và dân làng cùng nhau sửa sang lại phần mộ thật chu đáo. Trước đó mấy hôm, gia chủ đã xây “nhà mới” cho người đã mất. Những người phụ nữ Hà Nhì cũng xúc đất đắp lên mộ để làm lý. Sau khi các gia đình đặt lễ vật lên mộ thì chủ nhà thực hiện nghi lễ cúng tại bàn thờ thần rừng Gạ Ma Do. Sau lễ cúng, những người già ăn cơm tại mâm trước mộ. Một phong tục độc đáo là phụ nữ trong gia đình sẽ mang kẹo và nước ngọt đến chia cho tất cả những người tham gia lễ tảo mộ, còn đàn ông thì đi mời rượu các mâm. Nghi lễ tảo mộ thể hiện tình cảm sâu sắc của người Hà Nhì dành cho người đã mất, đồng thời là nét đẹp văn hóa mang tính cộng đồng cao, được lưu giữ qua nhiều thế hệ.
Những người phụ nữ Hà Nhì cũng xúc đất đắp lên mộ để làm lý.
Độc đáo nghi lễ tảo mộ của người Hà Nhì ảnh 6
Sau khi các gia đình đặt lễ vật lên mộ thì chủ nhà thực hiện nghi lễ cúng tại bàn thờ thần rừng Gạ Ma Do.
Độc đáo nghi lễ tảo mộ của người Hà Nhì ảnh 7
Sau lễ cúng, những người già ăn cơm tại mâm trước mộ.
Độc đáo nghi lễ tảo mộ của người Hà Nhì ảnh 8
Một phong tục độc đáo là phụ nữ trong gia đình sẽ mang kẹo và nước ngọt đến chia cho tất cả những người tham gia lễ tảo mộ, còn đàn ông thì đi mời rượu các mâm.
Độc đáo nghi lễ tảo mộ của người Hà Nhì ảnh 9
Nghi lễ tảo mộ thể hiện tình cảm sâu sắc của người Hà Nhì dành cho người đã mất, đồng thời là nét đẹp văn hóa mang tính cộng đồng cao, được lưu giữ qua nhiều thế hệ.

Theo baolaocai.vn

Dân tộc Hà Nhì

Tên tự gọi: Hà Nhi gia.

Tên gọi khác: U Ní, Xá U Ní.

Nhóm địa phương: Hà Nhì, Cồ Chồ, Hà Nhì La Mí, Hà Nhì đen.

Dân số: 21.725 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến (ngữ hệ Hán-Tạng), gần với Miến hơn.

Lịch sử: Cư dân Hà Nhì đã từng sinh sống lâu đời ở nam Trung Quốc và Việt Nam. Từ thế kỷ thứ 8, thư tịch cổ đã viết về sự có mặt của họ ở Tây Bắc Việt Nam. Nhưng phần lớn tổ tiên người Hà Nhì hiện nay là lớp cư dân di cư đến Việt Nam khoảng 300 năm trở lại đây.

Hoạt động sản xuất: Người Hà Nhì sớm biết trồng lúa trên ruộng bậc thang. Họ giỏi việc khai khẩn tạo nên những thửa ruộng trên sườn núi dốc với những mương dẫn nước khéo léo. Họ quen dùng phân chuồng và phân tro trong canh tác lúa nước; đồng thời cũng làm nương cày hoặc nương cuốc để trồng ngô hoặc rau đậu, bầu, bí, bông, chàm...

Phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm theo lối chăn thả tự nhiên. Ðàn trâu nuôi thả rông trong rừng có đến hàng trăm con.

Nghề trồng bông, dệt vải đảm bảo nhu cầu vải mặc truyền thống. Có nơi do khí hậu lạnh nên không trồng được bông phải đem các sản phẩm như chàm, đồ đan, gia cầm đổi lấy bông. Phụ nữ dệt vải trên khung cửi nhỏ, khổ 20 cm. Vải bền do kỹ thuật dệt đo được nhuộm chàm nhiều lần. Trồng chàm và nhuộm chàm là một hoạt động rất đặc sắc ở người Hà Nhì.

Hái lượm còn chiếm vị trí đáng kể trong đời sống hàng ngày.

Ăn: Người Hà Nhì quen dùng cả cơm nếp và cơm tẻ trong các bữa ăn hàng ngày. Thực phẩm chủ yếu được cung cấp từ săn bắt, đánh cá, hái lượm. Vào dịp lễ tết, họ thường làm nhiều loại bánh, ưa dùng thịt nướng, thịt xào và đặc biệt thích ăn cháo ám nấu với thịt gà hoặc thịt lợn.

: Họ quần cư chủ yếu trên dọc biên giới Việt-Trung, Việt-Lào thuộc các huyện Bát Xát (Lào Cai), Mường Tè (Lai Châu). Bộ phận làm ruộng bậc thang, nương định canh từ lâu đã sống định cư. Nhiều bản có tuổi trên 100 năm, đông tới 50, 60 hộ. Những nơi làm nương, bản thường phân tán rải rác theo nương.

Ða số cư dân ở nhà đất, tường trình chắc chắn, dày tới 30-40cm, thích hợp với khí hậu lạnh vùng núi cao. Tuỳ từng nơi, nhà có hàng hiên phía trước hoặc hàng hiên ở ngay trong nhà để tránh gió rét. Họ quen nấu cơm bằng chảo ở bếp lò xây trên nền đất.

Phương tiện vận chuyển: Người Hà Nhì phổ biến dùng gùi đeo qua trán, một số nơi dùng ngựa trong việc đi lại và chuyên trở.

Quan hệ xã hội: Tính cộng đồng trong làng bản biểu hiện khá tập trung không chỉ trong sản xuất mà cả trong lĩnh vực văn hoá tinh thần, tôn giáo, tín ngưỡng.

Gia đình nhỏ phụ quyền song người phụ nữ vẫn được trân trọng trong xã hội. Có nhiều họ khác nhau, mỗi họ lại chia ra thành nhiều chi. Tên chi gọi theo tên ông tổ.

Người Hà Nhì không có tục thờ cúng chung toàn dòng họ mà chỉ thờ cúng theo gia đình. Việc thờ cúng do con trai cả, dòng trưởng đảm nhận. Nếu dòng trưởng không có người thừa kế thì việc thờ cúng chuyển cho con trai út. Các thành viên trong gia đình, dù đã ra ở riêng, nếu bị chết phải đưa xác về quàn tại trước bàn thờ bố mẹ thì người quá cố mới được thờ cúng chung với tổ tiên.

Hàng năm vào tối 30 tết, một nghi lễ rất quan trọng trong gia đình được thực hiện. Ðó là lễ tưởng nhớ tổ tiên dòng họ, đọc tên từng tổ tiên và mọi người cùng nhắc lại. Tên từng người được gọi theo cách gọi phụ tử liên danh, tên cha nối với tên con, nên có vần điệu dễ nhớ. Có họ nhắc tới 71 tên gọi trong buổi lễ này. Có nơi nghi lễ này cũng được thực hiện trong lễ nhập quan cho người chết.

Cưới xin: Tuỳ từng vùng phong tục cưới xin khác nhau nhưng một điểm chung nhất là các cuộc hôn nhân do trai gái tự tìm hiểu. Ở vùng Bát Xát (Lào Cai), cưới qua nhiều bước. Sau ba lần dạm hỏi, lễ cưới thứ nhất được tổ chức nhằm đưa con dâu về nhà chồng. Lần cưới thứ hai ăn uống linh đình ở nhà gái. Lễ này chỉ diễn ra sau khi đôi vợ chồng làm ăn khá giả, lúc đó họ đã có con, cháu, có người 50-60 năm sau hoặc cho đến khi chết vẫn chưa tổ chức được lễ cưới này. Ở Tây Bắc, sau lễ hỏi, con rể đến ở rể. Nếu trả ngay tiền cưới thì không phải ở rể, lễ cưới được tổ chức ngay, từ đó con dâu mang họ của chồng.

Sinh đẻ: Phụ nữ Hà Nhì đẻ đứng. Ðể dễ đẻ họ có tục đập vỡ ống bương đựng nước cho nước toé ra hoặc thả ống bương nước trong có cái đục từ trên đỉnh nóc nhà xuống, đục bắn ra giống như đứa trẻ được đẻ ra. Có nơi sản phụ được uống nước tro của ruột voi với mong muốn sản phụ có sức mạnh như voi. Rau đẻ được chôn ở ngay sau cửa ra vào hay cột cạnh bếp lò.

Nhà có trẻ mới sinh được báo hiệu bằng chiếc nón úp trên cọc ở trước cửa, nếu cọc ở phía bên phải - sinh con gái, bên trái - sinh con trai.

Ma chay: Quan tài bằng thân cây khoét rỗng, có nắp đậy kín. Nơi đào huyệt được chọn bằng cách ném trứng, trứng vỡ ở đâu thì đào ở đấy. Kiêng chôn vào mùa mưa, vào thời điểm đó quan tài người chết được treo xuống huyệt nhưng không lấp, bên trên có nhà táng hoặc đặt trên giàn. Hết mùa mưa mới đem chôn quan tài có người chết.

Thờ cúng: Họ tin có linh hồn, thờ cúng tổ tiên, cúng bản và các nghi lễ nông nghiệp.

Lễ tết: Người Hà Nhì ăn tết năm mới vào đầu tháng 10 âm lịch. Trong năm còn có Tết cơm mới, Tết mồng năm tháng năm, rằm tháng 7.

Học: Người Hà Nhì chưa có chữ viết riêng, việc giáo dục chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống được truyền từ đời này qua đời khác.

Văn nghệ: Người Hà Nhì có nền văn học dân gian với nhiều thể loại như truyện thần kỳ, cổ tích, trường ca, ca dao, thành ngữ...

Dân ca, dân vũ là những hình thức văn nghệ được mọi lứa tuổi ưa thích.

Các loại nhạc cụ có trống, chiêng, đàn tính, đàn môi, sáo.

Chơi: Trẻ em Hà Nhì thích chơi các trò chơi đòi hỏi lòng dũng cảm, khéo léo như đấu vật, đuổi bắt, trốn tìm, chơi cù, đu quay.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Hà Nhì

Có thể bạn quan tâm

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Hằng năm, vào ngày Mão tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân xã Đông Cuông, tỉnh Lào Cai rộn ràng tổ chức Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông. Đây là hoạt động truyền thống nhằm tổng kết một năm lao động, sản xuất, những người con quê hương, du khách bày tỏ lòng tri ân với Mẫu Thượng Ngàn, các đấng siêu nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Sáng 23/10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên tổ chức Khai mạc Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh, năm 2025. Sự kiện là hoạt động thiết thực nhằm chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025 - 2030; hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/1945 - 23/11/2025) và 80 năm Ngày Thể thao Việt Nam (27/3/1946 - 27/3/2026).

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Giữa nhịp sống hiện đại đang lan tỏa tới từng bản làng vùng cao, người Dao Tiền ở Bản Sưng, xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình cũ, nay thuộc tỉnh Phú Thọ) vẫn bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có nghi lễ cưới, một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, tín ngưỡng và đạo lý của cộng đồng.

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Chiều 20/10/2025, khoảnh khắc thiêng liêng và xúc động nhất trước thềm lễ hội Katê chính là khi cộng đồng người Chăm làng Hữu Đức (Phước Hữu, Khánh Hòa) trang trọng đón nhận y trang từ người anh em Raglai. Đây không chỉ là một nghi lễ, mà còn là một minh chứng sống động cho mối giao hảo bền chặt, độc đáo đã được trao truyền qua nhiều thế hệ trên mảnh đất đầy nắng và gió. 

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Những ngày này, từ các tuyến phố trung tâm cho đến tận các thôn bản nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Tuyên Quang đều rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ, băng rôn chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là kỳ Đại hội đầu tiên sau khi hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, là sự kiện chính trị trọng đại, thể hiện ý chí, niềm tin và khát vọng của gần 1,9 triệu đồng bào các dân tộc trong tỉnh cùng hướng tới tương lai.

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer tỉnh Cà Mau hiện có trên 32 nghìn hộ với gần 140 nghìn nhân khẩu, chiếm gần 6,5% dân số toàn tỉnh. Những ngày này, tại các địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, không khí chào đón lễ Sene Dolta, một trong những lễ hội truyền thống quan trọng và mang đậm bản sắc văn hóa của người Khmer, diễn ra rộn ràng. 

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Tại miền đất Quảng Ngãi, các làn điệu dân ca H’rê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc. Để những giai điệu này không bị lãng quên, vai trò của người phụ nữ dân tộc H’rê vô cùng to lớn. Họ là những nghệ nhân thầm lặng, miệt mài gìn giữ và lan tỏa tình yêu với âm nhạc truyền thống, biến những lời ca thành sợi dây kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ và hiện tại.

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Trong không gian bảng lảng khói sương của núi rừng, của bản làng, bên những ngôi nhà sàn gỗ, những mế (phụ nữ lớn tuổi), ẻm (cô gái trẻ) trong trang phục áo pắn (áo ngắn), váy dài quấn kết hợp với cạp váy dệt hoa văn tinh xảo, đeo tênh (thắt lưng), xà tích và vấn khăn trắng trên đầu. Tiếng chiêng mường vang vọng cùng lời mo rì rầm đưa con người về lại với cội nguồn, về với những giá trị cốt lõi từ ngàn xưa… Đó là văn hóa Mường, là di sản, kho báu tinh thần của cộng đồng người Mường Hòa Bình cũ, nay là tỉnh Phú Thọ.

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu là một nghi thức quan trọng trong lễ cưới của đồng bào Dao đỏ ở bản Nậm Sáng, xã Mường Than, tỉnh Lai Châu. Trải qua thời gian cùng những thăng trầm của lịch sử, đến nay, người Dao đỏ nơi đây vẫn giữ được nghi thức truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Cô dâu mặc trang phục truyền thống rực rỡ sắc màu. Đoàn đón dâu nhà trai phải chuẩn bị một đội kèn trống gồm 4 người, đây là phần không thể thiếu trong nghi lễ đón dâu. Tiếng kèn, trống, chiêng, chũm chọe để chào mừng và thông báo cho tổ tiên, đất trời về sự kiện trọng đại này.

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram tại ấp Cù Lao, xã Hưng Hội (Cà Mau) như một "bảo tàng mỹ thuật" thể hiện tài năng của các nghệ nhân Khmer. Ngôi chùa cũng là một trong những điểm đến văn hóa vô cùng độc đáo tại Cà Mau.

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Bắc Ninh là địa phương sở hữu di sản Thực hành Then được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong dòng chảy văn hóa xứ Kinh Bắc, làn điệu Then vang lên như tiếng gọi của núi rừng, vừa mộc mạc vừa tha thiết. Tại miền đất giàu truyền thống văn hiến này, Then được cộng đồng đón nhận, trân trọng và đưa vào đời sống như một nét đẹp văn hóa; góp phần làm phong phú thêm bức tranh đa sắc màu của vùng đất này.

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Sau khi hợp nhất, không gian phát triển du lịch của tỉnh Đắk Lắk được mở rộng, tạo cơ hội cho các đơn vị, doanh nghiệp du lịch, lữ hành, lưu trú kết nối tiềm năng, lợi thế ở khu vực Đông - Tây. Du khách được trải nghiệm nhiều cung bậc cảm xúc của biển xanh, cát trắng, nắng vàng và đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ cùng những bản sắc văn hóa đặc trưng của đồng bào miền núi.

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Tây Ninh đang từng ngày gìn giữ và phát huy nghề truyền thống làm đầu lân cùng nghệ thuật múa lân sư rồng. Bằng đôi bàn tay khéo léo, các nghệ nhân tỉ mỉ tạo hình những chiếc đầu lân rực rỡ, hòa với nghệ thuật múa lân sư rồng trong các dịp lễ, Tết và chương trình nghệ thuật, tạo nên nét đẹp văn hóa gắn liền với đời sống tinh thần người dân, góp phần bảo tồn và lan tỏa bản sắc văn hóa đặc trưng của địa phương.

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Thôn Xí Thoại (xã Xuân Lãnh, tỉnh Đắk Lắk) được biết đến là nơi lưu giữ nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Ba Na. Không chỉ là nét đẹp văn hóa mang tính bản sắc, nghề dệt ở đây còn là điểm nhấn thu hút du khách trong hành trình khám phá bản sắc văn hóa.