Độc đáo nghi lễ tảo mộ của người Hà Nhì

Độc đáo nghi lễ tảo mộ của người Hà Nhì
Tháng 2 âm lịch hàng năm là thời điểm đồng bào Hà Nhì ở vùng cao Bát Xát (Lào Cai) làm lễ tảo mộ cho người đã mất. Gia đình nào có điều kiện sẽ xây “nhà mới” cho người đã khuất và tổ chức lễ tảo mộ linh đình. 
 
Buổi tối hôm trước khi diễn ra lễ tảo mộ, những người trong gia đình và bà con trong thôn đến giúp chủ nhà gấp giấy tiền vàng thành chim hạc, hoa, đồ vật để hôm sau làm lễ. Lễ tảo mộ có sự tham gia của đại diện các gia đình trong thôn. Mọi người giúp nhau mang đồ đạc lên rừng nơi có phần mộ của người đã mất. Thịt lợn, thịt gà và các món ăn được chế biến ngay tại rừng để dâng cúng người đã mất. Mọi người trong gia đình và dân làng cùng nhau sửa sang lại phần mộ thật chu đáo. Trước đó mấy hôm, gia chủ đã xây “nhà mới” cho người đã mất. Những người phụ nữ Hà Nhì cũng xúc đất đắp lên mộ để làm lý. Sau khi các gia đình đặt lễ vật lên mộ thì chủ nhà thực hiện nghi lễ cúng tại bàn thờ thần rừng Gạ Ma Do. Sau lễ cúng, những người già ăn cơm tại mâm trước mộ. Một phong tục độc đáo là phụ nữ trong gia đình sẽ mang kẹo và nước ngọt đến chia cho tất cả những người tham gia lễ tảo mộ, còn đàn ông thì đi mời rượu các mâm. Nghi lễ tảo mộ thể hiện tình cảm sâu sắc của người Hà Nhì dành cho người đã mất, đồng thời là nét đẹp văn hóa mang tính cộng đồng cao, được lưu giữ qua nhiều thế hệ.
Buổi tối hôm trước khi diễn ra lễ tảo mộ, những người trong gia đình và bà con trong thôn đến giúp chủ nhà gấp giấy tiền vàng thành chim hạc, hoa, đồ vật để hôm sau làm lễ.
Buổi tối hôm trước khi diễn ra lễ tảo mộ, những người trong gia đình và bà con trong thôn đến giúp chủ nhà gấp giấy tiền vàng thành chim hạc, hoa, đồ vật để hôm sau làm lễ. Lễ tảo mộ có sự tham gia của đại diện các gia đình trong thôn. Mọi người giúp nhau mang đồ đạc lên rừng nơi có phần mộ của người đã mất. Thịt lợn, thịt gà và các món ăn được chế biến ngay tại rừng để dâng cúng người đã mất. Mọi người trong gia đình và dân làng cùng nhau sửa sang lại phần mộ thật chu đáo. Trước đó mấy hôm, gia chủ đã xây “nhà mới” cho người đã mất. Những người phụ nữ Hà Nhì cũng xúc đất đắp lên mộ để làm lý. Sau khi các gia đình đặt lễ vật lên mộ thì chủ nhà thực hiện nghi lễ cúng tại bàn thờ thần rừng Gạ Ma Do. Sau lễ cúng, những người già ăn cơm tại mâm trước mộ. Một phong tục độc đáo là phụ nữ trong gia đình sẽ mang kẹo và nước ngọt đến chia cho tất cả những người tham gia lễ tảo mộ, còn đàn ông thì đi mời rượu các mâm. Nghi lễ tảo mộ thể hiện tình cảm sâu sắc của người Hà Nhì dành cho người đã mất, đồng thời là nét đẹp văn hóa mang tính cộng đồng cao, được lưu giữ qua nhiều thế hệ.
Lễ tảo mộ có sự tham gia của đại diện các gia đình trong thôn. Mọi người giúp nhau mang đồ đạc lên rừng nơi có phần mộ của người đã mất.
Buổi tối hôm trước khi diễn ra lễ tảo mộ, những người trong gia đình và bà con trong thôn đến giúp chủ nhà gấp giấy tiền vàng thành chim hạc, hoa, đồ vật để hôm sau làm lễ. Lễ tảo mộ có sự tham gia của đại diện các gia đình trong thôn. Mọi người giúp nhau mang đồ đạc lên rừng nơi có phần mộ của người đã mất. Thịt lợn, thịt gà và các món ăn được chế biến ngay tại rừng để dâng cúng người đã mất. Mọi người trong gia đình và dân làng cùng nhau sửa sang lại phần mộ thật chu đáo. Trước đó mấy hôm, gia chủ đã xây “nhà mới” cho người đã mất. Những người phụ nữ Hà Nhì cũng xúc đất đắp lên mộ để làm lý. Sau khi các gia đình đặt lễ vật lên mộ thì chủ nhà thực hiện nghi lễ cúng tại bàn thờ thần rừng Gạ Ma Do. Sau lễ cúng, những người già ăn cơm tại mâm trước mộ. Một phong tục độc đáo là phụ nữ trong gia đình sẽ mang kẹo và nước ngọt đến chia cho tất cả những người tham gia lễ tảo mộ, còn đàn ông thì đi mời rượu các mâm. Nghi lễ tảo mộ thể hiện tình cảm sâu sắc của người Hà Nhì dành cho người đã mất, đồng thời là nét đẹp văn hóa mang tính cộng đồng cao, được lưu giữ qua nhiều thế hệ.
Thịt lợn, thịt gà và các món ăn được chế biến ngay tại rừng để dâng cúng người đã mất.
Buổi tối hôm trước khi diễn ra lễ tảo mộ, những người trong gia đình và bà con trong thôn đến giúp chủ nhà gấp giấy tiền vàng thành chim hạc, hoa, đồ vật để hôm sau làm lễ. Lễ tảo mộ có sự tham gia của đại diện các gia đình trong thôn. Mọi người giúp nhau mang đồ đạc lên rừng nơi có phần mộ của người đã mất. Thịt lợn, thịt gà và các món ăn được chế biến ngay tại rừng để dâng cúng người đã mất. Mọi người trong gia đình và dân làng cùng nhau sửa sang lại phần mộ thật chu đáo. Trước đó mấy hôm, gia chủ đã xây “nhà mới” cho người đã mất. Những người phụ nữ Hà Nhì cũng xúc đất đắp lên mộ để làm lý. Sau khi các gia đình đặt lễ vật lên mộ thì chủ nhà thực hiện nghi lễ cúng tại bàn thờ thần rừng Gạ Ma Do. Sau lễ cúng, những người già ăn cơm tại mâm trước mộ. Một phong tục độc đáo là phụ nữ trong gia đình sẽ mang kẹo và nước ngọt đến chia cho tất cả những người tham gia lễ tảo mộ, còn đàn ông thì đi mời rượu các mâm. Nghi lễ tảo mộ thể hiện tình cảm sâu sắc của người Hà Nhì dành cho người đã mất, đồng thời là nét đẹp văn hóa mang tính cộng đồng cao, được lưu giữ qua nhiều thế hệ.
Mọi người trong gia đình và dân làng cùng nhau sửa sang lại phần mộ thật chu đáo. Trước đó mấy hôm, gia chủ đã xây “nhà mới” cho người đã mất.
Buổi tối hôm trước khi diễn ra lễ tảo mộ, những người trong gia đình và bà con trong thôn đến giúp chủ nhà gấp giấy tiền vàng thành chim hạc, hoa, đồ vật để hôm sau làm lễ. Lễ tảo mộ có sự tham gia của đại diện các gia đình trong thôn. Mọi người giúp nhau mang đồ đạc lên rừng nơi có phần mộ của người đã mất. Thịt lợn, thịt gà và các món ăn được chế biến ngay tại rừng để dâng cúng người đã mất. Mọi người trong gia đình và dân làng cùng nhau sửa sang lại phần mộ thật chu đáo. Trước đó mấy hôm, gia chủ đã xây “nhà mới” cho người đã mất. Những người phụ nữ Hà Nhì cũng xúc đất đắp lên mộ để làm lý. Sau khi các gia đình đặt lễ vật lên mộ thì chủ nhà thực hiện nghi lễ cúng tại bàn thờ thần rừng Gạ Ma Do. Sau lễ cúng, những người già ăn cơm tại mâm trước mộ. Một phong tục độc đáo là phụ nữ trong gia đình sẽ mang kẹo và nước ngọt đến chia cho tất cả những người tham gia lễ tảo mộ, còn đàn ông thì đi mời rượu các mâm. Nghi lễ tảo mộ thể hiện tình cảm sâu sắc của người Hà Nhì dành cho người đã mất, đồng thời là nét đẹp văn hóa mang tính cộng đồng cao, được lưu giữ qua nhiều thế hệ.
Những người phụ nữ Hà Nhì cũng xúc đất đắp lên mộ để làm lý.
Độc đáo nghi lễ tảo mộ của người Hà Nhì ảnh 6
Sau khi các gia đình đặt lễ vật lên mộ thì chủ nhà thực hiện nghi lễ cúng tại bàn thờ thần rừng Gạ Ma Do.
Độc đáo nghi lễ tảo mộ của người Hà Nhì ảnh 7
Sau lễ cúng, những người già ăn cơm tại mâm trước mộ.
Độc đáo nghi lễ tảo mộ của người Hà Nhì ảnh 8
Một phong tục độc đáo là phụ nữ trong gia đình sẽ mang kẹo và nước ngọt đến chia cho tất cả những người tham gia lễ tảo mộ, còn đàn ông thì đi mời rượu các mâm.
Độc đáo nghi lễ tảo mộ của người Hà Nhì ảnh 9
Nghi lễ tảo mộ thể hiện tình cảm sâu sắc của người Hà Nhì dành cho người đã mất, đồng thời là nét đẹp văn hóa mang tính cộng đồng cao, được lưu giữ qua nhiều thế hệ.

Theo baolaocai.vn

Dân tộc Hà Nhì

Tên tự gọi: Hà Nhi gia.

Tên gọi khác: U Ní, Xá U Ní.

Nhóm địa phương: Hà Nhì, Cồ Chồ, Hà Nhì La Mí, Hà Nhì đen.

Dân số: 21.725 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến (ngữ hệ Hán-Tạng), gần với Miến hơn.

Lịch sử: Cư dân Hà Nhì đã từng sinh sống lâu đời ở nam Trung Quốc và Việt Nam. Từ thế kỷ thứ 8, thư tịch cổ đã viết về sự có mặt của họ ở Tây Bắc Việt Nam. Nhưng phần lớn tổ tiên người Hà Nhì hiện nay là lớp cư dân di cư đến Việt Nam khoảng 300 năm trở lại đây.

Hoạt động sản xuất: Người Hà Nhì sớm biết trồng lúa trên ruộng bậc thang. Họ giỏi việc khai khẩn tạo nên những thửa ruộng trên sườn núi dốc với những mương dẫn nước khéo léo. Họ quen dùng phân chuồng và phân tro trong canh tác lúa nước; đồng thời cũng làm nương cày hoặc nương cuốc để trồng ngô hoặc rau đậu, bầu, bí, bông, chàm...

Phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm theo lối chăn thả tự nhiên. Ðàn trâu nuôi thả rông trong rừng có đến hàng trăm con.

Nghề trồng bông, dệt vải đảm bảo nhu cầu vải mặc truyền thống. Có nơi do khí hậu lạnh nên không trồng được bông phải đem các sản phẩm như chàm, đồ đan, gia cầm đổi lấy bông. Phụ nữ dệt vải trên khung cửi nhỏ, khổ 20 cm. Vải bền do kỹ thuật dệt đo được nhuộm chàm nhiều lần. Trồng chàm và nhuộm chàm là một hoạt động rất đặc sắc ở người Hà Nhì.

Hái lượm còn chiếm vị trí đáng kể trong đời sống hàng ngày.

Ăn: Người Hà Nhì quen dùng cả cơm nếp và cơm tẻ trong các bữa ăn hàng ngày. Thực phẩm chủ yếu được cung cấp từ săn bắt, đánh cá, hái lượm. Vào dịp lễ tết, họ thường làm nhiều loại bánh, ưa dùng thịt nướng, thịt xào và đặc biệt thích ăn cháo ám nấu với thịt gà hoặc thịt lợn.

: Họ quần cư chủ yếu trên dọc biên giới Việt-Trung, Việt-Lào thuộc các huyện Bát Xát (Lào Cai), Mường Tè (Lai Châu). Bộ phận làm ruộng bậc thang, nương định canh từ lâu đã sống định cư. Nhiều bản có tuổi trên 100 năm, đông tới 50, 60 hộ. Những nơi làm nương, bản thường phân tán rải rác theo nương.

Ða số cư dân ở nhà đất, tường trình chắc chắn, dày tới 30-40cm, thích hợp với khí hậu lạnh vùng núi cao. Tuỳ từng nơi, nhà có hàng hiên phía trước hoặc hàng hiên ở ngay trong nhà để tránh gió rét. Họ quen nấu cơm bằng chảo ở bếp lò xây trên nền đất.

Phương tiện vận chuyển: Người Hà Nhì phổ biến dùng gùi đeo qua trán, một số nơi dùng ngựa trong việc đi lại và chuyên trở.

Quan hệ xã hội: Tính cộng đồng trong làng bản biểu hiện khá tập trung không chỉ trong sản xuất mà cả trong lĩnh vực văn hoá tinh thần, tôn giáo, tín ngưỡng.

Gia đình nhỏ phụ quyền song người phụ nữ vẫn được trân trọng trong xã hội. Có nhiều họ khác nhau, mỗi họ lại chia ra thành nhiều chi. Tên chi gọi theo tên ông tổ.

Người Hà Nhì không có tục thờ cúng chung toàn dòng họ mà chỉ thờ cúng theo gia đình. Việc thờ cúng do con trai cả, dòng trưởng đảm nhận. Nếu dòng trưởng không có người thừa kế thì việc thờ cúng chuyển cho con trai út. Các thành viên trong gia đình, dù đã ra ở riêng, nếu bị chết phải đưa xác về quàn tại trước bàn thờ bố mẹ thì người quá cố mới được thờ cúng chung với tổ tiên.

Hàng năm vào tối 30 tết, một nghi lễ rất quan trọng trong gia đình được thực hiện. Ðó là lễ tưởng nhớ tổ tiên dòng họ, đọc tên từng tổ tiên và mọi người cùng nhắc lại. Tên từng người được gọi theo cách gọi phụ tử liên danh, tên cha nối với tên con, nên có vần điệu dễ nhớ. Có họ nhắc tới 71 tên gọi trong buổi lễ này. Có nơi nghi lễ này cũng được thực hiện trong lễ nhập quan cho người chết.

Cưới xin: Tuỳ từng vùng phong tục cưới xin khác nhau nhưng một điểm chung nhất là các cuộc hôn nhân do trai gái tự tìm hiểu. Ở vùng Bát Xát (Lào Cai), cưới qua nhiều bước. Sau ba lần dạm hỏi, lễ cưới thứ nhất được tổ chức nhằm đưa con dâu về nhà chồng. Lần cưới thứ hai ăn uống linh đình ở nhà gái. Lễ này chỉ diễn ra sau khi đôi vợ chồng làm ăn khá giả, lúc đó họ đã có con, cháu, có người 50-60 năm sau hoặc cho đến khi chết vẫn chưa tổ chức được lễ cưới này. Ở Tây Bắc, sau lễ hỏi, con rể đến ở rể. Nếu trả ngay tiền cưới thì không phải ở rể, lễ cưới được tổ chức ngay, từ đó con dâu mang họ của chồng.

Sinh đẻ: Phụ nữ Hà Nhì đẻ đứng. Ðể dễ đẻ họ có tục đập vỡ ống bương đựng nước cho nước toé ra hoặc thả ống bương nước trong có cái đục từ trên đỉnh nóc nhà xuống, đục bắn ra giống như đứa trẻ được đẻ ra. Có nơi sản phụ được uống nước tro của ruột voi với mong muốn sản phụ có sức mạnh như voi. Rau đẻ được chôn ở ngay sau cửa ra vào hay cột cạnh bếp lò.

Nhà có trẻ mới sinh được báo hiệu bằng chiếc nón úp trên cọc ở trước cửa, nếu cọc ở phía bên phải - sinh con gái, bên trái - sinh con trai.

Ma chay: Quan tài bằng thân cây khoét rỗng, có nắp đậy kín. Nơi đào huyệt được chọn bằng cách ném trứng, trứng vỡ ở đâu thì đào ở đấy. Kiêng chôn vào mùa mưa, vào thời điểm đó quan tài người chết được treo xuống huyệt nhưng không lấp, bên trên có nhà táng hoặc đặt trên giàn. Hết mùa mưa mới đem chôn quan tài có người chết.

Thờ cúng: Họ tin có linh hồn, thờ cúng tổ tiên, cúng bản và các nghi lễ nông nghiệp.

Lễ tết: Người Hà Nhì ăn tết năm mới vào đầu tháng 10 âm lịch. Trong năm còn có Tết cơm mới, Tết mồng năm tháng năm, rằm tháng 7.

Học: Người Hà Nhì chưa có chữ viết riêng, việc giáo dục chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống được truyền từ đời này qua đời khác.

Văn nghệ: Người Hà Nhì có nền văn học dân gian với nhiều thể loại như truyện thần kỳ, cổ tích, trường ca, ca dao, thành ngữ...

Dân ca, dân vũ là những hình thức văn nghệ được mọi lứa tuổi ưa thích.

Các loại nhạc cụ có trống, chiêng, đàn tính, đàn môi, sáo.

Chơi: Trẻ em Hà Nhì thích chơi các trò chơi đòi hỏi lòng dũng cảm, khéo léo như đấu vật, đuổi bắt, trốn tìm, chơi cù, đu quay.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Hà Nhì

Có thể bạn quan tâm

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu là một nghi thức quan trọng trong lễ cưới của đồng bào Dao đỏ ở bản Nậm Sáng, xã Mường Than, tỉnh Lai Châu. Trải qua thời gian cùng những thăng trầm của lịch sử, đến nay, người Dao đỏ nơi đây vẫn giữ được nghi thức truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Cô dâu mặc trang phục truyền thống rực rỡ sắc màu. Đoàn đón dâu nhà trai phải chuẩn bị một đội kèn trống gồm 4 người, đây là phần không thể thiếu trong nghi lễ đón dâu. Tiếng kèn, trống, chiêng, chũm chọe để chào mừng và thông báo cho tổ tiên, đất trời về sự kiện trọng đại này.

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram tại ấp Cù Lao, xã Hưng Hội (Cà Mau) như một "bảo tàng mỹ thuật" thể hiện tài năng của các nghệ nhân Khmer. Ngôi chùa cũng là một trong những điểm đến văn hóa vô cùng độc đáo tại Cà Mau.

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Bắc Ninh là địa phương sở hữu di sản Thực hành Then được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong dòng chảy văn hóa xứ Kinh Bắc, làn điệu Then vang lên như tiếng gọi của núi rừng, vừa mộc mạc vừa tha thiết. Tại miền đất giàu truyền thống văn hiến này, Then được cộng đồng đón nhận, trân trọng và đưa vào đời sống như một nét đẹp văn hóa; góp phần làm phong phú thêm bức tranh đa sắc màu của vùng đất này.

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Sau khi hợp nhất, không gian phát triển du lịch của tỉnh Đắk Lắk được mở rộng, tạo cơ hội cho các đơn vị, doanh nghiệp du lịch, lữ hành, lưu trú kết nối tiềm năng, lợi thế ở khu vực Đông - Tây. Du khách được trải nghiệm nhiều cung bậc cảm xúc của biển xanh, cát trắng, nắng vàng và đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ cùng những bản sắc văn hóa đặc trưng của đồng bào miền núi.

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Tây Ninh đang từng ngày gìn giữ và phát huy nghề truyền thống làm đầu lân cùng nghệ thuật múa lân sư rồng. Bằng đôi bàn tay khéo léo, các nghệ nhân tỉ mỉ tạo hình những chiếc đầu lân rực rỡ, hòa với nghệ thuật múa lân sư rồng trong các dịp lễ, Tết và chương trình nghệ thuật, tạo nên nét đẹp văn hóa gắn liền với đời sống tinh thần người dân, góp phần bảo tồn và lan tỏa bản sắc văn hóa đặc trưng của địa phương.

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Thôn Xí Thoại (xã Xuân Lãnh, tỉnh Đắk Lắk) được biết đến là nơi lưu giữ nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Ba Na. Không chỉ là nét đẹp văn hóa mang tính bản sắc, nghề dệt ở đây còn là điểm nhấn thu hút du khách trong hành trình khám phá bản sắc văn hóa.

Trải nghiệm nét văn hóa, truyền thống đặc trưng của các dân tộc

Trải nghiệm nét văn hóa, truyền thống đặc trưng của các dân tộc

Ngày 31/7, thông tin từ Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam cho biết, từ ngày 1 - 29/8/2025 tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) sẽ diễn ra nhiều hoạt động tháng 8 với chủ đề “Về Làng trải nghiệm nét văn hóa truyền thống”.

Thắp lửa truyền thống, đánh thức bản sắc văn hóa dân tộc S’tiêng

Thắp lửa truyền thống, đánh thức bản sắc văn hóa dân tộc S’tiêng

Đồng bào dân tộc S’tiêng với kho tàng văn hóa phong phú đang đứng trước thách thức trong việc gìn giữ và truyền dạy cho thế hệ mai sau. Trước thực trạng này, tại Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng sóc Bom Bo (xã Bom Bo, tỉnh Đồng Nai), chính quyền địa phương đang nỗ lực thắp lại ngọn lửa truyền thống, đánh thức tình yêu và ý thức bảo tồn văn hóa trong mỗi người trẻ.

Nghệ An: Giải mã nghi thức buộc chỉ cổ tay và lễ đặt tên của người Ơ Đu

Nghệ An: Giải mã nghi thức buộc chỉ cổ tay và lễ đặt tên của người Ơ Đu

Trải qua hàng trăm năm người Ơ Đu tại bản Văng Môn (xã Nga My, tỉnh Nghệ An) đã bảo lưu, gìn giữ và trao truyền được nhiều tập tục, nghi thức văn hóa, tín ngưỡng, nét sinh hoạt mang giá trị bản sắc văn hóa rất độc đáo, riêng có. Trong đó, nghi thức cột chỉ cổ tay và lễ đặt tên đều nằm trong Lễ đón tiếng sấm đầu năm, vốn là những nghi lễ tâm linh, tín ngưỡng độc đáo trong hệ thống lễ tục vòng đời của người Ơ Đu; thể hiện văn hóa ứng xử hài hòa giữa con người với thiên nhiên, hướng về cội nguồn, tri ân các vị tiền bối đã có công khai phá, bảo vệ bản mường, tạ ơn trời đất.

Đưa di sản vào đời sống đương đại, phát triển du lịch bền vững

Đưa di sản vào đời sống đương đại, phát triển du lịch bền vững

Ngày 14/7, tại xã Khổng Lào, Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lai Châu và UBND xã Khổng Lào tổ chức Lễ công bố Quyết định và trao chứng nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2025 cho tỉnh Lai Châu.

Đặc sắc nghệ thuật chế tác khèn Mông ở vùng cao Lào Cai

Đặc sắc nghệ thuật chế tác khèn Mông ở vùng cao Lào Cai

Với đồng bào Mông ở vùng cao Lào Cai, cây khèn là nhạc cụ truyền thống quan trọng và độc đáo không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Nghệ thuật chế tác khèn đã trở thành nghề truyền thống quan trọng được người Mông nơi rẻo cao gìn giữ và quảng bá sản phẩm tới du khách trong, ngoài nước.

Bảo tồn, phát triển văn hóa Khmer gắn với phát triển du lịch

Bảo tồn, phát triển văn hóa Khmer gắn với phát triển du lịch

Tại Bạc Liêu, đồng bào dân tộc Khmer có trên 78.000 người, chiếm 7,6% dân số. Đồng bào nơi đây có đời sống tinh thần phong phú với những ngôi chùa Khmer kiến trúc lộng lẫy, các loại hình nghệ thuật truyền thống và nhiều lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

Duy trì mức sinh thay thế, bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực

Duy trì mức sinh thay thế, bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực

Vĩnh Phúc hiện là một trong nhiều địa phương trên cả nước có mức sinh chênh lệch giữa các vùng, đối tượng ngày càng lớn. Trước tình hình đó, tỉnh đã nỗ lực triển khai các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình; từ đó đạt mức sinh thay thế, góp phần ổn định quy mô dân số.

Khai thác thế mạnh xuất khẩu sản phẩm nông - thủy sản có lợi thế cạnh tranh

Khai thác thế mạnh xuất khẩu sản phẩm nông - thủy sản có lợi thế cạnh tranh

Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Tiền Giang Lưu Văn Phi cho biết: Hiện nay, tỉnh nỗ lực khai thác những tiềm năng và thế mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông - thủy sản có lợi thế cạnh tranh; tích cực nắm bắt cơ hội, mở rộng thị trường, nhằm đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu bền vững, thu hút ngoại tệ.

'Chìa khóa' để bắt kịp xu thế cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4

'Chìa khóa' để bắt kịp xu thế cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4

Ngày 6/6, UBND tỉnh Lai Châu và Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông đã ký kết thỏa thuận hợp tác đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh giai đoạn 2025 - 2030.

Phát huy vai trò khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới

Phát huy vai trò khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới

Ngày 4/6, tại tỉnh Sóc Trăng, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Hậu Giang và thành phố Cần Thơ phối hợp tổ chức Hội nghị đóng góp ý kiến vào dự thảo Đề án sắp xếp, hợp nhất Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội và hội quần chúng 3 tỉnh, thành phố (hội nghị lần thứ 3).

Truyền thông Campuchia ca ngợi sức sống mới ở vùng đồng bào Khmer Nam Bộ

Truyền thông Campuchia ca ngợi sức sống mới ở vùng đồng bào Khmer Nam Bộ

Trong những ngày đầu tháng này, các phương tiện truyền thông Campuchia đăng tải nhiều chủ đề bài viết đính kèm hình ảnh đa dạng, giới thiệu về cuộc sống mới với nhiều khởi sắc, đổi thay toàn diện trong vùng đồng bào Khmer tại các tỉnh, thành vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.

Đẩy mạnh phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

Đẩy mạnh phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

Theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tiền Giang Trần Hoàng Nhật Nam, nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, địa phương đã tổ chức được mạng lưới 198 hợp tác xã nông nghiệp - thủy sản, thu hút gần 55.000 thành viên; giải quyết công ăn việc làm cho gần 2.000 lao động. Đến đầu tháng 6/2025, các hợp tác xã trên lĩnh vực nông nghiệp - thủy sản đã đạt doanh thu khoảng 140 tỷ đồng, tăng gần 25% so với cùng kỳ năm trước.

Các tỉnh Tây Nam Bộ tập trung thực hiện hoàn thành công tác dân tộc

Các tỉnh Tây Nam Bộ tập trung thực hiện hoàn thành công tác dân tộc

Ngày 30/5, tại Sóc Trăng, Bộ Dân tộc và Tôn giáo tổ chức Hội nghị tổng kết công tác thi đua khen thưởng Cụm thi đua số 6 (gồm 10 địa phương: Vĩnh Long, Trà Vinh, Long An, Kiên Giang, An Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ) về công tác dân tộc.

Hiệu quả từ mô hình 'Họ đạo bình yên - gia đình hòa thuận' của đồng bào K’Ho

Hiệu quả từ mô hình 'Họ đạo bình yên - gia đình hòa thuận' của đồng bào K’Ho

Được thành lập từ năm 2019, mô hình “Họ đạo bình yên - Gia đình hạnh phúc” ở buôn B’laosire thuộc tổ dân phố 14, phường B’Lao (thành phố Bảo Lộc, Lâm Đồng) được đánh giá cao bởi tính hiệu quả. Từ nhiều năm qua, mô hình góp phần bảo đảm an ninh trật tự, người dân tập trung làm ăn phát triển kinh tế, hàng chục hộ vươn lên thoát nghèo, Họ đạo được Bộ Công an khen thưởng vào năm 2024.

Yên Lạc “giữ lửa” nghề chằm áo tơi truyền thống

Yên Lạc “giữ lửa” nghề chằm áo tơi truyền thống

Chiếc áo mộc mạc, được làm từ những tàu lá cọ khô, không chỉ là vật dụng che mưa nắng quen thuộc của người dân thôn Yên Lạc (xã Quang Lộc, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh) suốt hàng trăm năm, mà còn là biểu tượng của sự cần cù, khéo léo và nét đẹp văn hóa đậm đà bản sắc. Giữa nhịp sống hối hả, nghề chằm áo tơi truyền thống vẫn được người dân lặng lẽ “giữ lửa”, trao truyền qua bao thế hệ, bảo tồn một phần hồn quê hương trong từng sợi lá.