Lễ đón dâu của người Sán Dìu

Lễ đón dâu của người Sán Dìu
Dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam có nhiều nét độc đáo về các nghi lễ như nghi lễ cúng cơm mới, rửa bừa, cúng thần rừng... đến nay vẫn được bảo tồn nguyên vẹn.
Đặc biệt, trong đó, phong tục cưới hỏi của người Sán Dìu không chỉ là sinh hoạt văn hóa tinh thần, mà còn thể hiện tình cảm, đạo đức, lối sống, phép ứng xử giữa người với người, giữa con người với thiên nhiên..Lễ đón dâu là một trong những nghi thức quan trọng trong lễ cưới của người Sán Dìu ở tỉnh Thái Nguyên.
 
Nhà trai chuẩn bị lễ vật đến nhà gái dạm ngõ
Nhà trai chuẩn bị lễ vật đến nhà gái dạm ngõ

Lễ cưới (sênh ca chíu) của người Sán Dìu thường diễn ra trong vòng 3 ngày. Khi hai nhà bắt đầu dựng rạp (thường vào buổi chiều) cũng là lúc đoàn nhà trai mang đồ thách cưới sang nhà gái. Đoàn nhà trai gồm ông mối làm trưởng đoàn, một cô phù dâu (tánh cả) và 4 đến 5 thanh niên. Theo phong tục, tất cả đồ lễ đều được dán giấy đỏ, đồng bào cho rằng màu đỏ là màu của hạnh phúc, niềm vui và sự đủ đầy.

Thầy cúng Lâm Văn Quang, bà Lang Thị Tám và bà Trương Thị Sinh, người Sán Dìu ở Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên cho biết:“Ngày cưới phải có ông mối. Tất cả các lễ nghi từ lợn thách cưới, lợn 2 con, rượu 60 lít, tiền mang sang bên nhà gái có cả vòng bạc Thách cưới 50kg lợn, độ 15 triệu. Đấy là phong tục thời xưa, lễ 3 con gà, 1 buồng cau. Cau, trầu. Mỗi 1 con gà thì mang theo 1 đấu gạo nếp, tức là khoảng 1,5kg vào để đón dâu.”

Chú rể và cô dâu hẹn lời thề nguyện ước trước sự chứng kiến của hai họ
Chú rể và cô dâu hẹn lời thề nguyện ước trước sự chứng kiến của hai họ

Lễ đón dâu của người Sán Dìu có nhiều nét đặc biệt, đó là chú rể không có mặt trong đoàn người đi đón. Ngoài ra, khác với nhiều dân tộc, khi đi đón dâu, bao giờ người Sán Dìu cũng chọn thời điểm mặt trời lặn.

Ngoài việc tránh những điềm không may mắn, tránh những rủi ro thì còn là sự mong cầu có được một nàng dâu tốt nết theo quan niệm của người Sán Dìu: “Tục lệ người Sán Dìu là cứ tối mới được đón dâu, độ khoảng 4 giờ chiều đón dâu, cứ phải mặt trời lặn mới được vào nhà. Các cụ dặn như vậy.”

“Theo tâm linh, lúc dâu về chiều tối là dâu chịu khó hơn. Dâu về ban ngày là dâu không chăm chỉ.” 

Cô dâu trước khi ra khỏi nhà sẽ được phủ lên đầu chiếc khăn màu đỏ và chiếc khăn màu xanh, trong đó, khăn đỏ là của nhà gái, khăn xanh là của nhà trai. Đến nhà chồng, chiếc khăn xanh sẽ được phủ lên trên chiếc khăn đỏ. Theo quan niệm của người Sán Dìu, điều này hàm ý là từ nay vợ phải nghe lời chồng, vợ chồng phải đồng thuận.

Không dừng lại ở đó, khoảnh khắc thú vị nhất là khi cô dâu bước vào cửa buồng cưới. Cánh thanh niên nhà gái phải rút thật nhanh chiếc khăn đỏ trên đầu cô dâu. Thầy cúng Lâm Văn Quang cho biết:   “Khi vào cửa buồng, nhà gái phải rút thật nhanh. Nếu không rút nhanh, bị các thanh niên bên nhà trai, các bạn của chú rể đứng hai bên cửa buồng, rút mất trước thì phải hát đối. Nếu không hát được là đêm hôm đó các chàng trai không cho các cô gái phù dâu ngủ ở đấy. Khi đưa dâu đến là tất cả nhà gái ở lại nhà trai ăn ở 1 đêm, rồi đến sáng hôm sau khoảng 9 – 10 giờ tiễn nhà gái về thì còn có 7 – 8 cô phù dâu ở lại với cô dâu thêm 1 đêm nữa để hát với các chàng trai bên nhà trai.”


Khi về nhà chồng, nàng dâu phải mang theo món quà đó là khăn mặt. Nhà chồng có bao nhiêu người thì hôm ấy cô dâu sẽ mang theo bấy nhiêu chiếc khăn mặt. Và trong ngày cuối cùng của đám cưới, khi trời chưa sáng hẳn, cô dâu dậy đun nước pha trà bằng bộ ấm chén mới để mời ông bà, cha mẹ, họ hàng nhà chồng và bưng chậu nước kèm theo chiếc khăn mới để người thân bên chồng rửa mặt. Người được nhận nước rửa mặt sau khi rửa xong, thả vào chậu 1 ít tiền để chúc phúc.

Thầy cúng Lâm Văn Quang giải thích: “Báo hiếu của dân tộc Sán Dìu thì hôm cuối cùng, nàng dâu phải có 1 chậu nước và mỗi người một chiếc khăn mặt. Cô dâu đi lấy nước cho ông bà bên nhà chồng, bố mẹ chồng, họ mạc bên nhà chồng với ý nghĩa là họ nhận dâu, nếu chưa nhận lễ đấy thì chưa phải con dâu.”

Cũng trong buổi sáng hôm đó, nhà trai đồng thời tổ chức cho cô dâu lễ lại mặt tại nhà gái. Đoàn đi lễ lại mặt gồm mẹ chồng, cô, dì, chị gái chồng cùng cô dâu mang gà trống, chân giò, bánh chưng đến nhà gái. Nhà gái chuẩn bị một lễ cúng gia tiên và mời họ hàng thân thiết tới ăn cơm. Cô dâu được bố mẹ chồng dặn dò thêm một số tục lệ khi mới về nhà chồng đồng thời nhà gái giao trách nhiệm cho nhà trai dạy bảo thêm con gái mình.

Về cơ bản, lễ đón dâu của dân tộc Sán Dìu tại một số địa phương tương tự nhau, tuy nhiên cũng sẽ có một số điểm khác biệt. Nhưng tựu chung lại, mỗi nghi lễ đều ẩn chứa những ý nghĩa đạo lý, nhân văn. Hôn nhân của người Sán Dìu chính là nơi hội tụ các giá trị văn hoá tộc người. Qua đó, ta thấy được những giá trị văn hoá vật chất, văn hoá xã hội và văn hoá tinh thần mang đặc trưng sắc thái văn hoá cộng đồng

Theo vovworld.vn

Dân tộc Sán Dìu

Tên tự gọi: San Déo Nhín (Sơn Dao Nhân).

Tên gọi khác: Trại, Trại Ðất, Mán Quần cộc, Mán Váy xẻ...

Ngôn ngữ: Người Sán Dìu nói thổ ngữ Hán Quảng Ðông (ngữ hệ Hán - Tạng).

Dân số: 146.821 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Lịch sử: Người Sán Dìu di cư đến Việt Nam khoảng 300 năm nay.

Hoạt động sản xuất: Người Sán Dìu có làm ruộng nước nhưng không nhiều, canh tác ruộng khô là chính. Ngoài các loại cây trồng thường thấy ở nhiều vùng như lúa, ngô, khoai, sắn... họ còn trồng nhiều cây có củ.

Từ rất lâu họ biết dùng phân bón ruộng. Nhờ đắp thêm mũi phụ, lưỡi cày của họ trở nên bền, sắc và thích hợp hơn với việc cày ở nơi đất cứng, nhiều sỏi đá.

Ăn: Người Sán Dìu ăn cơm tẻ là chính, có độn thêm khoai sắn. Sau bữa ăn, họ thường húp thêm bát cháo loãng như người Nùng.

Mặc: Bộ Y phục truyền thống của phụ nữ gồm khăn đen, áo dài (đơn hoặc kép), nếu là áo kép thì bao giờ chiếc bên trong cũng màu trắng còn chiếc bên ngoài màu chàm dài hơn một chút; yếm màu đỏ; thắt lưng màu trắng, hồng hay xanh lơ; váy là hai mảnh rời cùng chung một cạp, chỉ dài quá gối có màu chàm; xà cạp màu chàm; xà cạp màu trắng. Ðồ trang trí gồm vòng cổ, vòng tay, hoa tai và dây xà tích bằng bạc.

Nam giới ăn mặc như người Việt: búi tóc vấn khăn hoặc đội khăn xếp, áo dài thâm, quần trắng.

: Họ sống tập trung ở trung du Bắc bộ, trong vùng từ tả ngạn sông Hồng đổ về phía Ðông. Làng xóm của họ tựa như làng người Việt, có luỹ tre bao bọc và giữa các nhà thường có tường hay hàng rào. Ở nhà đất trình tường hay thưng ván.

Phương tiện vận chuyển: Ngoài gánh còn sử dụng xe quệt như là một phương tiện vận chuyển chính. Xe làm bằng tre, gỗ do trâu kéo, dùng để vận chuyển chính. Xe làm bằng tre, gỗ do trâu kéo, dùng để vận chuyển tất cả mọi thứ, từ thóc lúa, củi đuốc cho đến phân bón. Do không có bánh bên xe quệt có thể sử dụng ở nhiều loại địa hình khác nhau.

Quan hệ xã hội: Trước Cách mạng tháng Tám, ruộng đất đã tư hữu hoá và xã hội đã có sự phân hoá giai cấp rõ rệt. Ðịa chủ và phú nông nắm giữ nhiều ruộng đất và bóc lột các tầng lớp nông dân lao động dưới hình thức phát canh thu tô, thuê mướn nhân công và cho vay nặng lãi.

Bên cạnh bộ máy chính quyền, ở các làng còn có người đứng đầy làng do dân bầu ra để quản lý công việc chung.

Cưới xin: Nam nữ được tự do yêu đương nhưng có thành vợ thành chồng hay không họ lại tuỳ thuộc vào "số mệnh" và sự quyết định của bố mẹ.

Ðám cưới gồm nhiều nghi lễ. Ðáng chú ý nhất có lễ khai hoa tửu diễn ra tại nhà gái, trước hôm cô dâu về nhà chồng. Người ra lấy một bình rượu và một cái đĩa, trên đĩa lót hai miếng giấy cắt hoa, miếng trắng để dưới, miếng đỏ để trên, đặt lên trên đĩa hai quả trứng luộc có xâu chỉ đỏ và buộc ở mỗi bên trứng hai đồng xu. Sau khi cúng thì bóc trứng lấy lòng đỏ hoà với rượu để mọi người uống mừng hạnh phúc của cô dâu, chú rể.

Ma chay: Khi hạ huyệt, con cái phải từ phía chân quan tài bò một vòng quanh miệng huyệt. Con trai bò từ trái sang phải còn con gái bò từ phải sang trái, vừa bò vừa xô đất lấp huyệt. Lúc đứng dậy, mỗi người vốc một nắm đất và chạy thật nhanh về nhà bỏ vào chuồng trâu, chuồng lợn... với ý nghĩa cho gia súc sinh sôi, nảy nở. Tiếp đó chạy vào nhà và ngồi xuống thúng thóc với quan niệm ai dính nhiều thóc là may mắn. Cuối cùng, mỗi người tự xé lấy một miếng thịt gà luộc để ăn, ai đến trước nhất được mào gà, tiếp theo được đầu, cổ, cánh... Nhà mồ có mái bằng, lợp lá rừng. Khi cải táng, xương được xếp vào tiểu hoặc chum theo tư thế ngồi và nếu chưa chọn được ngày tốt thì chôn tạm ở chân đồi hay bờ ruộng.

Nhà mới: Mỗi khi có ai làm nhà thì mọi người trong họ, trong làng tự đến giúp đỡ, chủ nhân không cần phải mời giúp. Trong lễ lên nhà mới chủ nhà mời người cao tuổi trong họ đem lửa, bình vôi, ít hạt giống vào nhà.

Thờ cúng: Trên bàn thờ thường đặt ba bát hương thờ tổ tiên, pháp sư và táo quân. Nếu chủ nhà chưa được cấp sắc thì chỉ có hai bát hương. Những người mới chết chưa kịp làm ma cũng đặt bát hương lên bàn thờ nhưng để thấp hơn. Ngoài ra, người Sán Dìu còn thờ thổ thần ở miếu thờ thành hoàng ở đình.

Lễ tết: Có những ngày tết như nhiều dân tộc ở trong vùng. Riêng tết Ðông chí còn mang thêm ý nghĩa cầu mong có con đàn, cháu đống. Những người đã lấy nhau lâu mà vẫn chưa có con thì sau khi ăn tết xong người vợ về nhà bố mẹ đẻ ở. Người chồng cho ông mối đến hỏi và sau đó tổ chức cưới lại như là cưới vợ mới.

Lịch: Người Sán Dìu theo âm lịch.

Học: Trước kia, thanh niên thường học chữ Hán để làm thầy cúng nhưng hiện nay còn rất ít người biết chữ Hán.

Văn nghệ: Giống như ở nhiều dân tộc khác, người Sán Dìu cũng có hát giao duyên nam nữ mà họ gọi là soọng cô, thường được hát về đêm. Có những cuộc hát kéo dài suốt nhiều đêm.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Sán Dìu

Có thể bạn quan tâm

Thắp lửa truyền thống, đánh thức bản sắc văn hóa dân tộc S’tiêng

Thắp lửa truyền thống, đánh thức bản sắc văn hóa dân tộc S’tiêng

Đồng bào dân tộc S’tiêng với kho tàng văn hóa phong phú đang đứng trước thách thức trong việc gìn giữ và truyền dạy cho thế hệ mai sau. Trước thực trạng này, tại Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng sóc Bom Bo (xã Bom Bo, tỉnh Đồng Nai), chính quyền địa phương đang nỗ lực thắp lại ngọn lửa truyền thống, đánh thức tình yêu và ý thức bảo tồn văn hóa trong mỗi người trẻ.

Nghệ An: Giải mã nghi thức buộc chỉ cổ tay và lễ đặt tên của người Ơ Đu

Nghệ An: Giải mã nghi thức buộc chỉ cổ tay và lễ đặt tên của người Ơ Đu

Trải qua hàng trăm năm người Ơ Đu tại bản Văng Môn (xã Nga My, tỉnh Nghệ An) đã bảo lưu, gìn giữ và trao truyền được nhiều tập tục, nghi thức văn hóa, tín ngưỡng, nét sinh hoạt mang giá trị bản sắc văn hóa rất độc đáo, riêng có. Trong đó, nghi thức cột chỉ cổ tay và lễ đặt tên đều nằm trong Lễ đón tiếng sấm đầu năm, vốn là những nghi lễ tâm linh, tín ngưỡng độc đáo trong hệ thống lễ tục vòng đời của người Ơ Đu; thể hiện văn hóa ứng xử hài hòa giữa con người với thiên nhiên, hướng về cội nguồn, tri ân các vị tiền bối đã có công khai phá, bảo vệ bản mường, tạ ơn trời đất.

Đưa di sản vào đời sống đương đại, phát triển du lịch bền vững

Đưa di sản vào đời sống đương đại, phát triển du lịch bền vững

Ngày 14/7, tại xã Khổng Lào, Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lai Châu và UBND xã Khổng Lào tổ chức Lễ công bố Quyết định và trao chứng nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2025 cho tỉnh Lai Châu.

Đặc sắc nghệ thuật chế tác khèn Mông ở vùng cao Lào Cai

Đặc sắc nghệ thuật chế tác khèn Mông ở vùng cao Lào Cai

Với đồng bào Mông ở vùng cao Lào Cai, cây khèn là nhạc cụ truyền thống quan trọng và độc đáo không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Nghệ thuật chế tác khèn đã trở thành nghề truyền thống quan trọng được người Mông nơi rẻo cao gìn giữ và quảng bá sản phẩm tới du khách trong, ngoài nước.

Bảo tồn, phát triển văn hóa Khmer gắn với phát triển du lịch

Bảo tồn, phát triển văn hóa Khmer gắn với phát triển du lịch

Tại Bạc Liêu, đồng bào dân tộc Khmer có trên 78.000 người, chiếm 7,6% dân số. Đồng bào nơi đây có đời sống tinh thần phong phú với những ngôi chùa Khmer kiến trúc lộng lẫy, các loại hình nghệ thuật truyền thống và nhiều lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

Duy trì mức sinh thay thế, bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực

Duy trì mức sinh thay thế, bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực

Vĩnh Phúc hiện là một trong nhiều địa phương trên cả nước có mức sinh chênh lệch giữa các vùng, đối tượng ngày càng lớn. Trước tình hình đó, tỉnh đã nỗ lực triển khai các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình; từ đó đạt mức sinh thay thế, góp phần ổn định quy mô dân số.

Khai thác thế mạnh xuất khẩu sản phẩm nông - thủy sản có lợi thế cạnh tranh

Khai thác thế mạnh xuất khẩu sản phẩm nông - thủy sản có lợi thế cạnh tranh

Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Tiền Giang Lưu Văn Phi cho biết: Hiện nay, tỉnh nỗ lực khai thác những tiềm năng và thế mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông - thủy sản có lợi thế cạnh tranh; tích cực nắm bắt cơ hội, mở rộng thị trường, nhằm đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu bền vững, thu hút ngoại tệ.

'Chìa khóa' để bắt kịp xu thế cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4

'Chìa khóa' để bắt kịp xu thế cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4

Ngày 6/6, UBND tỉnh Lai Châu và Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông đã ký kết thỏa thuận hợp tác đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh giai đoạn 2025 - 2030.

Phát huy vai trò khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới

Phát huy vai trò khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới

Ngày 4/6, tại tỉnh Sóc Trăng, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Hậu Giang và thành phố Cần Thơ phối hợp tổ chức Hội nghị đóng góp ý kiến vào dự thảo Đề án sắp xếp, hợp nhất Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội và hội quần chúng 3 tỉnh, thành phố (hội nghị lần thứ 3).

Truyền thông Campuchia ca ngợi sức sống mới ở vùng đồng bào Khmer Nam Bộ

Truyền thông Campuchia ca ngợi sức sống mới ở vùng đồng bào Khmer Nam Bộ

Trong những ngày đầu tháng này, các phương tiện truyền thông Campuchia đăng tải nhiều chủ đề bài viết đính kèm hình ảnh đa dạng, giới thiệu về cuộc sống mới với nhiều khởi sắc, đổi thay toàn diện trong vùng đồng bào Khmer tại các tỉnh, thành vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.

Đẩy mạnh phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

Đẩy mạnh phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

Theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tiền Giang Trần Hoàng Nhật Nam, nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, địa phương đã tổ chức được mạng lưới 198 hợp tác xã nông nghiệp - thủy sản, thu hút gần 55.000 thành viên; giải quyết công ăn việc làm cho gần 2.000 lao động. Đến đầu tháng 6/2025, các hợp tác xã trên lĩnh vực nông nghiệp - thủy sản đã đạt doanh thu khoảng 140 tỷ đồng, tăng gần 25% so với cùng kỳ năm trước.

Các tỉnh Tây Nam Bộ tập trung thực hiện hoàn thành công tác dân tộc

Các tỉnh Tây Nam Bộ tập trung thực hiện hoàn thành công tác dân tộc

Ngày 30/5, tại Sóc Trăng, Bộ Dân tộc và Tôn giáo tổ chức Hội nghị tổng kết công tác thi đua khen thưởng Cụm thi đua số 6 (gồm 10 địa phương: Vĩnh Long, Trà Vinh, Long An, Kiên Giang, An Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ) về công tác dân tộc.

Hiệu quả từ mô hình 'Họ đạo bình yên - gia đình hòa thuận' của đồng bào K’Ho

Hiệu quả từ mô hình 'Họ đạo bình yên - gia đình hòa thuận' của đồng bào K’Ho

Được thành lập từ năm 2019, mô hình “Họ đạo bình yên - Gia đình hạnh phúc” ở buôn B’laosire thuộc tổ dân phố 14, phường B’Lao (thành phố Bảo Lộc, Lâm Đồng) được đánh giá cao bởi tính hiệu quả. Từ nhiều năm qua, mô hình góp phần bảo đảm an ninh trật tự, người dân tập trung làm ăn phát triển kinh tế, hàng chục hộ vươn lên thoát nghèo, Họ đạo được Bộ Công an khen thưởng vào năm 2024.

Yên Lạc “giữ lửa” nghề chằm áo tơi truyền thống

Yên Lạc “giữ lửa” nghề chằm áo tơi truyền thống

Chiếc áo mộc mạc, được làm từ những tàu lá cọ khô, không chỉ là vật dụng che mưa nắng quen thuộc của người dân thôn Yên Lạc (xã Quang Lộc, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh) suốt hàng trăm năm, mà còn là biểu tượng của sự cần cù, khéo léo và nét đẹp văn hóa đậm đà bản sắc. Giữa nhịp sống hối hả, nghề chằm áo tơi truyền thống vẫn được người dân lặng lẽ “giữ lửa”, trao truyền qua bao thế hệ, bảo tồn một phần hồn quê hương trong từng sợi lá.

Tết mùa mưa đặc sắc của dân tộc Hà Nhì

Tết mùa mưa đặc sắc của dân tộc Hà Nhì

Đồng bào dân tộc Hà Nhì có nhiều phong tục đặc sắc, trong đó có Tết mùa mưa (Dế Khừ Chà) là một trong bảy Tết trong năm theo phong tục cổ truyền của người Hà Nhì.

Lễ Mạng Ma - Nghi lễ tâm linh của người Xinh Mun

Lễ Mạng Ma - Nghi lễ tâm linh của người Xinh Mun

Vào độ xuân về khi hoa ban nở trắng rừng, người Xinh Mun ở Sơn La lại tổ chức Lễ Mạng Ma – một nghi lễ tâm linh truyền thống cầu sức khỏe, giải hạn, thể hiện niềm tin sâu sắc vào sự kết nối giữa con người với thần linh, tổ tiên và vạn vật thiên nhiên.

Tục nhuộm răng đen - nét văn hóa đặc sắc của phụ nữ dân tộc Lự ở Lai Châu

Tục nhuộm răng đen - nét văn hóa đặc sắc của phụ nữ dân tộc Lự ở Lai Châu

Dân tộc Lự là một trong những dân tộc rất ít người có số dân dưới 10 nghìn người hiện đang sinh sống chủ yếu ở huyện Tam Đường và huyện Sìn Hồ tỉnh Lai Châu, đã từ lâu, tục nhuộm răng đen của phụ nữ dân tộc Lự là một trong những nét văn hóa đặc trưng. Hiện, các cấp ủy, chính quyền huyện tăng cường tuyên truyền vận động người dân tiếp tục truyền dậy, phát huy những giá trị bản sắc văn hóa của dân tộc Lự trước nguy cơ bị mai một.

Tái hiện lễ cúng trưởng thành của đồng bào Ê Đê

Tái hiện lễ cúng trưởng thành của đồng bào Ê Đê

Trong khuôn khổ các hoạt động của Ngày Văn hoá các dân tộc Việt Nam (19/4), tại Làng Văn hoá – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội), đồng bào dân tộc Ê Đê đã tái hiện nghi lễ trưởng thành đặc sắc của dân tộc mình.

Gìn giữ bánh truyền thống Khẩu Sli của người Tày, Nùng ở Cao Bằng

Gìn giữ bánh truyền thống Khẩu Sli của người Tày, Nùng ở Cao Bằng

Cao Bằng, một tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, không chỉ nổi tiếng với cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ mà còn là nơi lưu giữ nhiều nét văn hóa đặc sắc của các dân tộc thiểu số. Một trong những món ăn truyền thống nổi bật của người Tày, người Nùng ở đây là bánh Khẩu Sli, món bánh mang đậm hương vị quê hương và được người dân nơi đây coi là món quà tuyệt vời trong những dịp lễ, Tết.

Lễ ăn mừng đầu lúa mới của đồng bào Raglai

Lễ ăn mừng đầu lúa mới của đồng bào Raglai

Đồng bào Raglai sở hữu một kho tàng tri thức dân gian đồ sộ, từ sử thi, truyện cổ, dân ca đến luật tục… Không chỉ vậy, đồng bào còn lưu giữ nhiều lễ hội dân gian đặc sắc như Lễ ăn mừng đầu lúa mới, lễ bỏ mả, các nghi lễ vòng đời… Trong đó lễ ăn mừng đầu lúa mới đã được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, khẳng định gái trị văn hóa sâu sắc và vai trò quan trọng trong đời sống, tinh thần của cộng đồng người Ragalai.

Món cà đắng lòng gà bọc lá chuối của người Jrai

Món cà đắng lòng gà bọc lá chuối của người Jrai

Ẩm thực của người Jrai ở Gia Lai luôn độc đáo với những món ăn ngon, dân dã, đậm nét truyền thống. Trong số đó, món cà đắng lòng gà bọc lá chuối nổi bật như một biểu tượng của sự sáng tạo và gắn kết với thiên nhiên.